Vương Trí Nhàn
Núi Phú Sĩ
Cộng với những hiểu biết vốn có từ trước năm ngày du lịch bụi
ngắn ngủi, đủ để tôi cảm thấy xã hội Nhật, người Nhật là cả một hình
ảnh đảo ngược của xã hội Việt, người Việt
Ngày 8-6-2013
Xuất phát từ Hà Nội, sau một chuyến bay đêm hơn bốn tiếng đồng hồ,
chúng tôi bắt đầu một ngày mới trên chiếc xe từ sân bay Narita về Tokyo.
Không khí dịu mát như một ngày cuối thu đầu đông ở đồng bằng sông Hồng,
song cái lạnh ở đây lại có khí vị vùng biển bắc, cái cảm giác mà tôi
cảm nhận khi đến Leningrad vào năm 1988.
Nhìn chung quanh, thấy khung cảnh thoáng rộng sạch sẽ, cây cối đạm
bạc. Ghé lại một trạm bên đường để xe mua xăng, bắt gặp không khí của
nước Nhật bình thường, người nào người nấy chăm chú vào công việc.
Có cái lạ là, khi đến Tokyo, tôi cũng lại gặp một khung cảnh vắng
lặng như vậy. Không những trên đường người đi bộ thưa thớt mà cả ô tô đi
lại cũng ít. Trong khi đó, lại biết rằng Tokyo có đến 20 triệu dân và
hàng ngày có đến 40 triệu người lai vãng. Nơi tôi tới chỉ là ngoại ô
chăng? Thành phố chính ở đâu? Như đã đoán được thắc mắc của tôi, người
hướng dẫn du lịch sớm giải thích, đây chỉ là phần trên mặt đất, còn
trong lòng đất có đến bốn thành phố nữa. Ở đó cũng có giao thông, xe
điện ngầm, những phố buôn bán; ở đó mặc dù rất đông, nhưng rất trật tự.
Ngày đầu xa lạ
Địa điểm đầu tiên chúng tôi đến tham quan là phía ngoài hoàng cung
Nhật. Cũng như mọi người dân nội địa, chúng tôi không được vào tham cung
điện chính của hoàng gia, chỉ được đứng và quan sát từ xa và nghe người
giới thiệu kể chuyện lại về một cuộc sống rất khổ hạnh của những người
sống trong cung điện đó.
Người Nhật quen chấp nhận tình trạng cách ly này bởi họ hiểu những
người sống trong hoàng cung phải nhận vai hình mẫu của nước Nhật, có
nghĩa phải chịu rất nhiều áp lực. Có những người con gái trong đó cảm
thấy thật nhẹ nhõm nếu lấy được người chồng dân thường, ra khỏi hoàng
cung, để được sống như mọi người bình thường.
Buổi chiều chúng tôi đến thăm ngôi nhà của Tòa thị chính, ở đây có tháp truyền hình cũ, từ đó có thể nhìn ra cả Tokyo.
Có điều mất vui là ngay trong buổi chiều đầu tiên này, đoàn du lịch
chúng tôi đã có một người bỏ trốn. Khi cả đoàn lên tháp rồi lần lượt
xuống dần thì anh ta lẩn mất. Sau mới biết, từ Hà Nội anh ta đã chuẩn bị
để làm việc này. Cái ba lô còn lại trên xe ô tô của anh nhẹ tênh. Theo
sự giải thích của người hướng dẫn, có lẽ đây là một người Việt được bố
trí sang Nhật để trộm cắp thuê. Dân Việt có hộ chiếu bên đó, khi phát
hiện ăn cắp thì sẽ bị trục xuất khỏi nước Nhật. Nên họ phải thuê những
người trong nước sang làm chân rết. Người này có bị tống về thì cũng
không mất đầu mối.
Trong lúc vẩn vơ chờ làm các thủ tục, khoảng hơn một tiếng đồng hồ,
tôi nhìn quanh khu Tòa thị chính, thấy một không khí vắng vẻ. Nhớ nhất
là hình ảnh một cô gái dắt hai con chó đi đường. Cô chăm sóc chúng hết
sức cẩn thận. Khi chúng đói lấy thức ăn và theo dõi chúng ăn, bình thản
chờ đợi như bà mẹ đang đi chơi với những đứa con thân yêu của mình.
Tâm thế mới của phụ nữ Nhật
Để giải tỏa nỗi chán chường của bọn tôi, người hướng dẫn giới thiệu
một tình thế của người dân Nhật mà trước kia chúng tôi không thể tưởng
tượng nổi.
Anh cho biết, hiện nay ở nước Nhật có đến 62% người sống độc thân.
Nếu nhìn trên đường, chúng ta luôn thấy những người đàn ông chăm chú
nhìn về phía trước. Họ buồn, như là một thứ nhân vật phụ của cuộc đời.
Còn chính phụ nữ mới là những người đầy sức sống và thách thức.
Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật --từ nhỏ, đã được nghe câu nói ghi nhận sự tận tụy của người phụ nữ Nhật với gia đình.
Sau chiến tranh, khi nước Nhật bắt tay khôi phục kinh tế, người đàn
ông tập trung vào công việc của mình và ít khi về nhà trước 7h tối. Mọi
việc liên quan tới gia đình và con cái đặt cả lên vai vào người đàn bà.
Họ tự nguyện làm như thế cả đời.
Hôm nay đây tôi còn chứng kiến cảnh một đôi ông bà già trên đường;
khi tới chỗ nghỉ, người phụ nữ rút chiếc khăn mù xoa trong túi ra mời
chồng mình ngồi.
Nay mẫu phụ nữ loại đó chỉ còn thưa thớt.
Bề ngoài người phụ nữ Nhật không tự biểu hiện lộ liễu như người
Việt. Màu sắc phần lớn trang phục là màu trắng, màu xám và màu đen. Như
đang tự giấu mình đi. Không ai tô son, trát phấn… Nhưng cuộc sống bên
trong thì, theo anh hướng dẫn viên, thực sự nồng nhiệt. Khoảng mươi,
mười lăm năm gần đây, phụ nữ Nhật nổi loạn, nhiều người không lấy chồng
vì không thích phụ thuộc vào gia đình chồng và rất tự lập trong đời sống
riêng tư.
Ở Nhật, đời sống tình dục được coi bình thường như cơm ăn nước uống
và phụ nữ có phố đèn đỏ của mình. Ở đó, đối tác của họ là những thanh
niên mới lớn và lấy việc thỏa mãn nhu cầu phụ nữ làm nghề phụ. Người ta
có cách giữ bí mật cho cả hai bên.
Trong túi đàn bà, từ em thanh nữ mới lớn đến đám sồn sồn tuổi trung
niên luôn có ca-pốt. Và họ chủ động tìm tới những đối tượng để có thể
thỏa mãn những khát khao bất chợt nhưng chính đáng.
Trong các món quà trao nhau nhân ngày lễ tết, chính phụ nữ là màu nóng, còn nam giới được tượng trưng bởi màu lạnh.
Ngày 9–6-2013
Niềm vui với những công việc bình thường và tính tự lập được rèn từ nhỏ
Buổi sáng chủ nhật, bọn tôi đến khi vui chơi Disney Land nổi
tiếng. Ấn tượng lớn nhất, vẫn là những người phụ nữ làm công việc như
hướng dẫn người đi tham quan và bảo vệ trật tự chung quanh đó. Những
công việc có vẻ tẻ nhạt như thế được người Nhật làm với tất cả niềm vui
và sự háo hức khiến người Việt chúng ta gần như không thể hiểu nổi. Đứng
bên cạnh những đoàn xe lửa làm theo lối cổ, các nhân viên phục vụ không
những ân cần giúp đỡ cho người lên xe, mà còn tình cảm vẫy chào khách
lên đường, rồi lại hào hứng đón khách xuống khi hết vòng quay.
Người hướng dẫn du lịch giải thích thêm với chúng tôi, người Nhật
rất nghiêm túc trong việc công. Tất cả công chức đi làm đều mặc Âu phục.
Với họ, làm công chức không phải chỉ để kiếm tiền mà để phục vụ xã hội,
việc làm hợp đạo nghĩa làm người.
Một ấn tượng khác, là trẻ con trên nước Nhật rất ngoan và quen tự
lập. Trên đường mỗi trẻ có túi thức ăn riêng, tự lấy thức ăn khi muốn.
Thông thường các em đi theo người lớn rất đàng hoàng. Một ngày ở công
viên không nghe tiếng khóc nào của bọn trẻ.
Người Nhật có tinh thần tự trọng cao độ. Trong hoàn cảnh nghèo khó,
ít khi chấp nhận sự giúp đỡ của người khác mà làm được cái gì thì hưởng
cái đó. Điều đó được rèn từ nhỏ. Ở trường nuôi dạy trẻ, từ lúc biết bò,
đứa trẻ đã phải tự bò đến bàn thức ăn để lấy thức ăn. Ở lớp lớn hơn, đứa
trẻ tự gấp lấy quần áo và lo giữ vệ sinh.
Từ chuyện giao thông tới chuyện pháp luật
Đã hơn chục lần đi theo các đoàn du lịch nước ngoài, tôi thấy trên
xe thường người Việt Nam chỉ hay pha trò đùa bỡn, trêu chọc nhau, bàn
chuyện ăn uống, nói tục. Đa số người mình đi du lịch để làm dáng, để
tiêu tiền, không mấy ai tính chuyện đi để hiểu biết về xứ sở mà mình đặt
chân tới. Những người hướng dẫn du lịch Trung quốc chẳng hạn, rất hiểu
cái sự tầm thường đó. Trên xe, thể theo yêu cầu của người mình, họ nói
những chuyện trong thâm cung bí sử, nhưng toàn thứ vụn vặt gây tò mò.
Nói chung trình độ những người hướng dẫn cho các đoàn VN ở các nước gần
ta rất thấp. Người có chí chắc đi học tiếng Anh tiếng Đức chứ chả ai
chịu học tiếng Việt làm việc với các đoàn Việt.
May mắn lần này chúng tôi gặp người hướng dẫn khác hẳn. Anh cũng là
người Việt. Sang Nhật học, sau đó nhập quốc tịch Nhật và đưa cả vợ con
sang đó. Trong những lúc rỗi trên xe, anh Đức (tôi không biết họ, chỉ
nhớ tên) giới thiệu với chúng tôi rất nhiều về đặc sắc của nước Nhật, và
điều đó rất cần thiết với những người từ Việt Nam tới.
Ví dụ có lần anh nói về chuyện giao thông trên đường.
Chúng ta biết rằng người Nhật đi lại rất từ tốn và người ta nhường
đường nhau khi có việc cần tranh chấp. Trong câu chuyện của mình, anh
Đức có lưu ý thêm một điều. Luật pháp được soạn thảo rất tỉ mỉ và nói
cho cùng là rất nhân bản. Một mặt nhà nước bố trí cảnh sát theo dõi tốc
độ của xe trên đường, nhưng mặt khác, họ cho phép các nhà sản xuất cung
cấp cho lái xe các thiết bị cần thiết có khả năng cho biết chỗ nào cảnh
sát giao thông đứng bắn tốc độ, để tự động điều chỉnh lại. Tức là người
làm luật muốn bảo vệ quyền được đi nhanh hơn của xe cộ trong hoàn cảnh
cho phép.
Sự áp đặt luật pháp của những người cầm quyền ở đây cũng là rất mềm dẻo.
Khi có người lái xe phạm lỗi, cảnh sát, từ lúc yêu cầu giữ lại đến
lúc lên xe để đặt vấn đề phạt, đều có thái độ lịch sự tôn trọng đối tác,
tìm cách thân thiện bàn bạc, chứ không phải một chiều hạch sách rồi
muốn bắt người ta thế nào cũng được. Khi không thống nhất được với nhau,
họ để dành quyền phán xét cho tòa án,-- cố nhiên đó không phải loại tòa
án bao giờ cũng nhăm nhăm bênh cảnh sát như người nước mình. Danh tính
của những người bị phạt không bao giờ bị làm lộ.
Tôi cho đó mới là sự tôn trọng, sự khuyến khích người dân sống và làm theo luật pháp một cách hữu hiệu.
Pháp luật -- một bên nặng về răn đe trừng trị và một bên biết “cận nhân tình”
Có lần đọc cuốn Đông Á – Đông Nam Á - Những vấn đề lịch sử và hiện tại (nxb Thế giới,
2004), thấy ông Vũ Minh Giang (Đại học Quốc gia Hà Nội) nói tới những
điểm tương đồng trong tổ chức nhà nước của Việt Nam và Nhật Bản có nhấn
mạnh cả hai bên đều chú trọng pháp luật (sách trên tr. 62).
Hôm nay nhớ đến đoạn này bỗng thấy phì cười. Vì sự thật trong khi ở
nước người, chính quyền hết sức tôn trọng và đặt mình vào trong pháp
luật thì ở mình, pháp luật được soạn ra để áp dụng với dân, chứ nhân
viên công quyền đều hiểu ngầm rằng mình là người đứng ngoài. Mà người
dân cũng vậy, thấy pháp luật là chuyện phiền phức, song mặc nhiên chấp
nhận, lại còn tìm thấy niềm vui trong việc làm ngược pháp luật. Trừng
phạt răn đe nặng nề đến độ dã man được xem như một sự cần thiết.
Để hiểu tính mềm dẻo mà chặt chẽ của pháp luật ở Nhật Bản, hãy trở
lại câu chuyện về nhu cầu phụ nữ, phố đèn đỏ, mua dâm và bán dâm. Một
mặt theo phong tục tập quán cổ, luật nước Nhật cấm tất cả sự tiếp xúc
nam nữ ở dạng trần trụi. Thế nhưng đồng thời họ vẫn thấy con người Nhật
Bản đã thay đổi, nên các nghị sĩ khi làm luật đã nghĩ ra cách để bảo vệ
sự tiếp xúc này, không để dân bị ràng buộc vào luật một cách máy móc. Ví
dụ như họ sẽ phạt nếu một trong hai bên không có vật lạ trong người khi
tiếp xúc. Mà vật lạ này hiểu theo nghĩa rất rộng, nếu phụ nữ có một
vòng đeo tay hoặc người đàn ông có một cái răng giả thì tức là đã không
phạm luật. Thế thì còn phạt được ai nữa? Những điều này, theo tôi rất
nhân đạo. Còn thuần túy truy bức như ở ta là bất cận nhân tình và sẽ
sinh ra gian dối.
Các cửa hàng đồ cũ và thói quen cộng tác trong mọi việc
Nhân khi vào cửa hàng đồ cũ, anh Đức giới thiệu cho chúng tôi biết ở
Nhật, loại hàng này có cả một hệ thống phân phối. Những năm 70 – 80
người dân bình thường có thói quen thải loại đồ cũ ra theo hình thức rác
và người Việt Nam sang nhặt mang những đồ cũ đó đem về trong nước. Nay
họ có ý thức thu gom và phân phối lại. Nhân đây, anh Đức kể về việc tổ
chức làm ăn ở xứ này. Là khi có một công việc hợp lí thì nó cũng được
phổ biến khắp nước Nhật. Những người cùng ý tưởng tự tổ chức thành những
công ty, không có người nào đứng ngoài công ty đó mà có thể cạnh tranh
với họ được. Người Việt mình dành được miếng mồi thì ăn lẻ, không ai
cộng tác được với nhau, mà chỉ dìm dập nhau, phá nhau. Ở Nhật, nếu một
người có sáng kiến chung thì sẽ đưa ra để phục vụ lợi ích chung.
Ngày 10–6-2013
Chung quanh núi Phú Sĩ
Tối hôm qua, ngủ đêm tại khách sạn thuộc khu Hà Khẩu Hồ (tôi đọc
theo âm Hán Việt) thuộc khu vực núi Phú Sỹ, chúng tôi có cảm tưởng như
lạc vào gia đình người Nhật. Ăn một bữa cơm theo kiểu gia đình người
Nhật vẫn ăn. Xong, được bố trí đến khu vực tắm. Nam chung một bên, nữ
một bên, nhưng đã xuống tắm phải bỏ hết quần áo. Đêm, được bố trí ngủ
lại căn phòng như của người Nhật. Việc xâm nhập sâu vào phong tục ăn ở
như thế trong những lần đi các chuyến khác, bọn tôi không có dịp thực
hiện.
Sáng dậy, đi quanh hồ, tôi chợt nhận ra rằng nhà cửa ở đây cũng nhô
ra thụt vào mà không có lớp lang trật tự như mạn Giang Nam bên Trung
Quốc. Vườn hoa ở các gia đình hay các công sở không nổi bật lên vẻ rực
rỡ mà trông hơi có vẻ khổ hạnh và chỉ gợi chú ý bởi lùm cây hoặc một
tảng đá nào đấy. Tất cả khu vườn quy tụ chung quanh vào vật trung tâm
đó. Ngoài ra cây cỏ trong vườn thì kém, cỏ mọc rườm rà, thiếu một sự xử
lý công phu. Các công viên chỉ lo tạo ra sự kì bí mà tảng đá có vai trò
vật chủ và mối liên hệ giữa đá và cây là nhân tố chính gợi nên một vẻ
đẹp.
Ngồi xe lên núi. Các tài liệu du lịch đều nói rằng Phú Sĩ là biểu
tượng của đất nước mặt trời mọc. Trước khi lên đến trạm 5 ở độ cao
2000m, chúng tôi phải vượt qua hàng chục cây số rừng. Nhưng khi đến nơi,
ngôi miếu trên trạm 5 đó khá đơn sơ. Nói chung, chùa chiền của Nhật
không hào nhoáng, lộng lẫy như đền chùa của Trung Quốc. Thu hút du khách
nhất là việc đứng ở đấy chiêm ngưỡng cả ngọn núi trong tuyết phủ.
Đối với người Nhật, núi Phú Sỹ là biểu tượng cao nhất của sự thiêng
liêng. Người ta theo dõi để không ai có thể lấy đi hòn đất nào chung
quanh núi. Đã có những khách nước ngoài đến, định lấy những hòn đất đi
và đều bị phát hiện.
Chung quanh núi là khu vực huyền bí, người ta nói có những người
Nhật đã đến đây để sống những ngày cuối đời, tức là tự tử ngay trong khu
rừng trùng điệp mà mãi về sau người ta mới phát hiện ra. Số người này
đang tăng hàng năm.
Ấn tượng sau nửa ngày ròng ngồi ô tô
Từ giã Phú Sỹ, bọn tôi tới Owakudani, nơi có vết tích của miệng núi
lửa phun trào cách cây 3000 năm. Sau đó, là chặng đường dài tới Nakoné
và Nagoda.
Trước lúc qua Nhật, một người quen cũ đã nói rằng, do du lịch bụi,
chắc là bọn tôi không có điều kiện để sử dụng những phương tiện hiện đại
nhất như tàu cao tốc và phải di chuyển từ địa điểm nọ đến địa điểm kia
bằng ô tô. Ông nói điều đó với sự ái ngại vì ở Nhật số người di chuyển
bằng ô tô rất ít. Nhưng đối với tôi, cảm tưởng là được ngồi ô tô đi trên
những con đường nhựa nhẵn bóng và hiện đại của nước Nhật cũng đã sung
sướng lắm. Nữa là, sau một buổi chiều như thế, lại có may mắn gần như
được nhìn gần vào một nước Nhật và hiểu thêm điều người ta hay nói “Xứ
này nghèo về tài nguyên và chỉ có một thiên nhiên khắc khổ, nhưng đã
chinh phục được thiên nhiên khắc khổ đó để trở thành một xứ giàu có.”
Nhìn một hai ngôi nhà lắt lẻo giữa một triền núi xa, tôi hỏi Đức họ sống ra sao thì được trả lời:
-- Một gia đình Nhật định cư ở đâu thì chính phủ Nhật có trách nhiệm
làm đường tới đó, bảo đảm hàng hóa lưu thông tới đó để họ có thể sống
bình đẳng với mọi người.
Có một chuyện mà ở nhà tôi đã biết nhưng chưa thấy hết ý nghĩa của
nó, đó là việc người Nhật không khai thác tất cả những rừng cây và vùng
mỏ cũng khá giàu có của mình. Tất cả những đồ gỗ ở đây đều nhập từ nguồn
lâm sản nước ngoài, cũng như các khoáng sản cần thiết cho công nghiệp
của họ. Đối chiếu với cách nghĩ Việt Nam, kể ra đây cũng là một sự lạ.
Và lạ hơn hết là người Việt chúng ta còn cho chuyện tàn phá tài sản
thiên nhiên là chuyện thường, không bán hết đi thì lấy gì mà ăn.
Nông thôn đô thị chung một mặt bằng
Lúc này trước mắt du khách không còn là một nước Nhật của các cao ốc
và các khu đô thị thoáng đãng. Vùng đất nằm rải rác giữa núi non và bãi
biển không có gì là hấp dẫn và mĩ lệ như các vùng biển của Việt Nam
mình. Nhưng ở bất cứ nơi nào có điều kiện thì người nông dân Nhật vẫn
cần cù sản xuất. Cảm giác còn lại trong tôi là một nước Nhật giống như
một mặt bằng, giữa nông thôn và thành thị gần như không có sự chênh
lệch. Nay, là thời, theo Đức kể, người nông dân Nhật làm ruộng bằng cách
đi thuê các xí nghiệp nông nghiệp làm cho họ. Và đã có các hãng lớn
chuyên làm nông nghiệp phụ trách giúp họ từ việc chọn giống, cày bừa đến
bón phân và thu hoạch. Người nông dân chỉ việc ở nhà dùng tiền của mình
đầu tư chứng khoán.
Người Nhật đặc biệt lo bảo vệ nguồn lương thực của mình, tạo cho xứ sở một thứ thức ăn không những ngon lành mà còn bảo đảm chuẩn khoa học không gạo nước nào có thể có được. Đã có những thời gian mà chính phủ Nhật do áp lực quốc tế phải nhập một số gạo của các nước khác, khi mang về phân phối cho dân thì không đâu người ta lấy, đến cả cho không cũng không ai nhận. Cuối cùng, số gạo đã mua buộc phải đem đi dùng làm hàng viện trợ cho các nước khác.
Người Nhật đặc biệt lo bảo vệ nguồn lương thực của mình, tạo cho xứ sở một thứ thức ăn không những ngon lành mà còn bảo đảm chuẩn khoa học không gạo nước nào có thể có được. Đã có những thời gian mà chính phủ Nhật do áp lực quốc tế phải nhập một số gạo của các nước khác, khi mang về phân phối cho dân thì không đâu người ta lấy, đến cả cho không cũng không ai nhận. Cuối cùng, số gạo đã mua buộc phải đem đi dùng làm hàng viện trợ cho các nước khác.
Đặt người Việt bên cạnh người Nhật
Cũng nhân thời gian rỗi trên đường xa, Đức kể với tôi về chuyện
những người Việt Nam ở Nhật. Đức cho biết thật ra sau 4-1975, số người
Việt sang Nhật không phải là ít, nhưng số có thể trụ lại được ở Nhật thì
không nhiều và phần lớn là họ phải bỏ qua bên Úc hoặc bên Mĩ làm ăn.
Việc du nhập vào cộng đồng Nhật, đòi hỏi sự nỗ lực đặc biệt mà người
Việt không quen, chưa kể tiếng Nhật với nhiều người là khó học.
Chưa quen là như thế nào? Dù là mới tiếp xúc với người Nhật và văn
hóa Nhật một cách đơn sơ, tôi vẫn có cảm tưởng người Nhật với người Việt
Nam như hai đối cực, người nọ là thế giới đảo ngược của người kia.
Người Nhật có tinh thần gắn bó với xã hội, cấu kết với cộng đồng còn người Việt khôn lỏi, chạy vặt.
Người Việt thích phô trương còn người Nhật giấu mình sau vẻ ngoài bình lặng.
Người Việt ồn ào, lắm chuyện coi nơi công cộng là chỗ tự do buông
thả còn người Nhật sợ nhất làm phiền người khác cũng như là bị làm
phiền.
Bữa qua Miến Điện, tôi nhận ra một điều là không hiểu sao người bên
đó có vẻ ít nói, trên đường không có cảnh vừa đi vừa cầm điện thoại tán
chuyện. Có thể người Miến Điện không có tiền mua các loại máy mới? Nhưng
Nhật là một nước giàu có. Sao dân họ vẫn không có thói nói lắm nói
nhiều và xả ra cả khối lượng rác âm thanh ngập ngụa trên mọi ngả đường?
Chợt nghĩ chính sự nói lắm nói nhiều nói một cách ba vạ đã giết chết sự
suy nghĩ của người mình. Nó làm cho chúng ta thành một xã hội câm nín
trước các vấn đề rất lớn đang phải đối mặt.
Xuất khẩu lưu manh
Hôm nay có đến hơn một giờ đồng hồ liền, Đức toàn kể chuyện người
Việt sau 4-1975 tràn sang Nhật làm những việc gian dối như cờ bạc trộm
cắp ra sao, cảnh sát Nhật đã từng bước đấu trí với người Việt để vô hiệu
hóa các đồng bào lưu manh của chúng ta thế nào.
Chuyện đấu trí ấy tôi định ghi mà không sao theo dõi kịp nên đành
bỏ. Chỉ nhớ nhất một chi tiết. Có nhiều người Việt sau khi kiếm bẫm bằng
con đường bất chính trở, liền lấy cái vốn thu được từ nước ngoài về làm
vốn kinh doanh và trở thành đại gia.
Từ việc này nẩy ra hai ý nghĩ bổ sung:
1/ Ở các xã hội lành mạnh, đám nhà giàu là những người con ưu tú của
dân tộc, họ như đầu tầu kéo cả cộng đồng đi theo. Ở một xã hội cách
mạng dở dang rồi biến chất như ở ta, nhất là ở căn cứ miền bắc ”xã hội
chủ nghĩa” một thời gian dài không công nhận tài sản cá nhân, thì ngược
lại, đám nhà giàu phần lớn là đám lưu manh, khoác áo quan chức làm việc
lưu manh. Họ phất lên trong chiến tranh bằng cách buôn lậu những hàng
quốc cấm xuyên quốc gia. Với những đồng tiền kiếm được bằng các thủ đoạn
xấu xa, khi trở về nước làm kinh tế, họ có góp phần thúc đẩy sự làm ăn
và vì thế cả người dân lẫn chính quyền hoan nghênh họ. Nhưng lùi xa mà
nhìn, thì thấy đóng góp của những người này không thấm là bao so với sự
phá hoại những nguyên tắc đạo đức, tức những tác hại lâu dài, mà họ mang
lại.
2/ Ngoài số đại gia trên, hiện còn không ít người Việt, đang sống
vất va vất vưởng theo kiểu ăn cắp vặt, buôn lậu, làm thuê làm mướn ở xứ
người.
Nhớ hồi chống Mỹ bộ máy tuyên truyền của ông Tố Hữu cứ nhét vào đầu mọi người dân cái ý nghĩ Ta chiến đấu thế này không phải chỉ vì ta. Ta đang chiến đấu cho cả thế giới. Ta đang trở thành lương tâm nhân loại… .
Có phải hỡi miền Nam anh dũng!
Khi ta đứng lên cầm khẩu súng
Ta vì ta ba chục triệu người
Cũng vì ba ngàn triệu trên đời!
Khi ta đứng lên cầm khẩu súng
Ta vì ta ba chục triệu người
Cũng vì ba ngàn triệu trên đời!
Kỳ cục quái gở thế mà ai cũng tưởng thật và ai cũng thích.
Được những tư tưởng kiểu đó quấn chặt vào đầu, nhiều người Việt sau 4-75 ra nước ngoài, tự cho phép mình làm tất cả những việc xấu xa nhất, bất chấp luật pháp nước sở tại và những nguyên tắc đạo đức thông thường. Một cuộc xuất khẩu thói lưu manh đã kéo dài chưa biết bao giờ chấm dứt.
Được những tư tưởng kiểu đó quấn chặt vào đầu, nhiều người Việt sau 4-75 ra nước ngoài, tự cho phép mình làm tất cả những việc xấu xa nhất, bất chấp luật pháp nước sở tại và những nguyên tắc đạo đức thông thường. Một cuộc xuất khẩu thói lưu manh đã kéo dài chưa biết bao giờ chấm dứt.
Ngày 11–6-2013
Thăm các di tích lịch sử
Tham quan chùa Thanh Thủy. Ấn tượng nhất không phải là ngôi chùa, mà
là cách dựng công trình tôn giáo này. Cách nó bám vào chân hòn núi đá.
Cũng lại là một biểu tượng của tinh thần bám trụ của con người vào một
thiên nhiên khắc nghiệt.
Buổi chiều tới ngôi Chùa Vàng. Đọc chữ Hán, thấy chính ra chùa này
phải gọi là Kim Các tự mới đúng. Tôi thích cả không gian chung quanh
chùa và cả cái cách người ta tạo ra ấn tượng đối với người tới tham
quan.
Có một điều tôi thấy tin, là những chi tiết người ta trình bày về
ngôi chùa, cái giá trị cổ kính của nó. Các di tích ở Việt Nam thường có
những bảng giới thiệu rất luộm thuộm, nhiều lúc có cảm tưởng do những
người không hiểu biết viết ra.
(Còn nhớ là lần vào Văn miếu năm 2010, khi đọc tiểu sử Khổng Tử,
thấy viết là Đức Thánh Khổng "có đến bốn tác phẩm gọi là Tứ Thư". Điều
này sai vì bốn tác phẩm đó có tên là Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử. Sao lại nói những lời trong cuốn Mạnh Tử là do Khổng Tử nói được?)
Một niềm tin khác, khi đến thăm các công trình kiến trúc cổ, là cảm
thấy chắc chắn nó giống như là ban đầu nó đã được hình thành. Trong một
cuốn sách về văn hóa Nhật, tôi đọc thấy người ta nêu lên một nguyên tắc
khi trùng tu các công trình lịch sử. Là bất cứ thời nào, muốn làm lại
các công trình cũ thì cũng phải làm đúng như cái ban đầu, kể từ hình
dáng, các chi tiết trình bày cho đến chất liệu kiến trúc.
Một cách tự nhiên, tôi có cảm tưởng, chúng ta có thể tin được nền sử
học Nhật Bản, một niềm tin không thể có đối với nền sử học Việt Nam
hiện nay.
Trong số các đoàn nội địa tới tham quan tại các công trình kiến trúc
lịch sử, ở đâu tôi cũng gặp những đoàn học sinh do các giáo viên già
dẫn đường và giới thiệu. Sau được nghe lại, thấy nói là trong chương
trình học phổ thông, tất cả các học sinh có quyền được đi tham quan các
di tích có ghi trong sử sách. Chi phí các chuyến đi ấy do nhà nước đài
thọ và chỉ những người kinh nghiệm lâu năm trong nghề mới được giao việc
hướng dẫn các em.
Tình hình này khiến người ngoại quốc hiểu thêm một điều là tại sao
không bao giờ các di tích, các thắng cảnh ở Nhật lại có tình trạng tràn
ngập khách tham quan như bên Trung Quốc. Hình như những người lớn tuổi
của nước Nhật đã tham quan di tích này từ lúc nhỏ rồi, nếu có tham quan
chỉ đi lại thôi. Còn ở Trung Quốc, các di tích thường bị lấp đầy bởi
người nông dân của các tỉnh xa xôi mà họ muốn đến với các thắng cảnh.
Giống như cánh du lịch bụi Việt Nam chúng ta, lấy đi làm cái mốt, đi chỉ
để chứng tỏ rằng mình chẳng kém gì người.
Trở lại với quá khứ của Nhật Bản, tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi mối
quan hệ của nước này với Trung Quốc. Một mặt thì cái ảnh hưởng ấy quá rõ
và người Nhật không giấu điều này. Ai đó đã nói: “Người Nhật tìm ở Trung Hoa đức trầm tĩnh, vẻ hào hiệp và tính muôn màu muôn vẻ mà họ không thể có”.
Mặt khác, suốt trong quá trình lịch sử, người ta cũng bắt gặp nỗ lực
của người Nhật hướng theo cái tinh thần "trên cơ sở hoàn thiện mình, dám
là mình, vui với mình và không ghen tức với người nước ngoài". Đó lại
là điều không thấy ở người Việt, văn hóa Việt.
Người Nhật làm du lịch
Những người tổ chức du lịch đã cố gắng cho chúng tôi biết được nước
Nhật ở nhiều cung bậc khác nhau. Ví dụ về giao thông họ có bố trí cho
chúng tôi ngoài chuyện thường xuyên ngồi trên ô tô, có lúc đi tàu thủy,
có lúc đi tàu cao tốc.
Về ăn uống, ngoài những lối ăn nhanh theo kiểu buffet thì họ
thường xuyên cũng cho chúng tôi vào những quán ăn tổ chức theo kiểu
truyền thống. Ở đó, bọn tôi ngồi bệt xuống đất, chân đặt lên cái hố được
khoét rộng chung cho cả bàn, trên bàn đặt nồi lẩu. Cái thú vị nhất đối
với bọn tôi nói ra kể cũng phàm tục song cũng xin kể ra kể đây. Thú vị
vì, nhìn vào cái nồi lẩu, thịt không bao giờ thiếu. Khi ăn hết, nếu cần
chúng tôi có thể gọi thêm mà không phải trả thêm tiền.
Lúc đầu bọn tôi cũng lo lắng có những món ăn của Nhật không hợp khẩu vị, sau thì thấy cũng thích nghi dễ dàng.
Trong các chương trình như là thêm vào buổi chiều hôm nay, có việc
chúng tôi đến thăm cửa hàng kimono. Ở đó, khách du lịch vừa có dịp tham
quan cả cơ sở người ta đang dệt vải để làm ra kimono, và cũng có một
buổi biểu diễn thời trang, trong đó những người Nhật trình bày cách sử
dụng trang phục này.
Điều “rất Nhật” ở đây lại chính là cái bề ngoài "không chuyên
nghiệp", nó ngay lập tức gợi nên một thoáng thất vọng ở những người Việt
thạo đời. Ra vào đi lại trên sân khấu lúc này không phải là những cô
gái chuyên môn trình diễn thời trang, mà chỉ những người phụ nữ bình
thường, tưởng như họ đang đi ngoài phố, vừa được mời vào.
Phụ nữ Nhật nói chung không đẹp, rất ít khi chúng tôi phải sững sờ
cả người như khi sang Trung quốc, bắt gặp các cô gái còn chất quý phái
hôm qua. Những cô gái Nhật biểu diễn thời trang ở xưởng làm và bán
kimono cũng không thể gọi là đẹp. Họ trình diện trước du khách như những
người thông minh, nghiêm túc, tự trọng, có sự cởi mở với người bên
ngoài, mà vẫn giữ cho riêng mình đời sống nội tâm. Những bộ trang phục
họ mang ra trình diễn hôm đó không phải là những hàng đắt tiền mà đám
dân du lịch Việt Nam – những người đang thèm tiêu tiền -- háo hức. Nhưng
họ đâu có tính chuyện câu khách. Họ chỉ muốn giới thiệu một nét văn hóa
Nhật.
Những dư âm của cuộc động đất
Tiếp tục câu chuyện về người Nhật trong sự so sánh với người Việt
Nam. Sự kiện động đất xảy ra cách đây mấy năm vẫn còn trong kí ức người
Nhật như chuyện mới xảy ra năm ngoái tháng trước hôm qua. Nhưng, chính
lúc đó thì phẩm chất dân tộc của họ được bộc lộ.
Đức nói rằng ở đây đã lâu, song chính anh cũng rất ngạc nhiên vì cách phản ứng của người Nhật với động đất.
Ví dụ như, khi Tokyo mất điện, người ta đi bộ về nhà có khi đến hàng
vài chục cây số, cái cửa hàng bên đường tung hàng ra để phục vụ người
đi lại, mặc dù họ không có tiền. Khách sạn cho người đi đường vào ở nhà
và không tính tiền.
Sau đó, tinh thần và nghị lực của người Nhật cũng bộc lộ ở việc sự
nhất trí của xã hội trong việc khắc phục hậu quả tai họa. Sau động đất,
nhà nước cắt điện một số vùng thì các vùng khác cũng tự động cắt theo
giúp nhà nước có được lượng điện dự trữ. Khi đi làm việc, có lệnh chính
phủ, công chức không dùng caravat để tránh giặt giũ nhiều, thì người thường cũng tuân theo.
Cả nước bao giờ cũng làm quá hơn so với mức chính phủ yêu cầu. Chỉ có câu khẩu hiệu nêu ra và viết trong các taxi: Nhật Bản hãy cố gắng. Mấy chữ ngắn ngủi thế thôi, mà người Nhật đã hiểu rất nhiều.
Trở lại với ý nghĩ mới hình thành trong tôi mấy ngày nay, hình như
với người Việt Nam thì người Nhật ở dạng đảo ngược. Người mình sống
trong sự cạnh tranh, phải lấy dối trá làm đầu khi quan hệ với nhau.
Trong quan hệ với nhà nước và cộng đồng, càng trục lợi kiếm chác cho cá
nhân càng tốt. Ở Nhật, giữa cá nhân và cộng đồng có niềm tin chắc chắn.
Luôn luôn người ta tin rằng, những nỗ lực cá nhân của người ta sẽ được
xã hội hiểu, những người tự trọng không thể làm khác.
Ngày 12–6-2013
Chuyện quanh những ngôi chùa
Ngày cuối cùng ở Nhật
Mấy hôm trước, chúng tôi đã đi qua những thành phố nổi tiếng của xứ
sở này như Kyoto, nhưng dù thế cũng chỉ là lướt qua. Hôm nay cũng vậy,
mang tiếng là được đến kinh đô cổ kính của nước Nhật là Nara, nhưng
chúng tôi cũng chi được đi qua phố xá một quãng, sau đó được dẫn đến
thăm ngôi chùa cổ đọc theo chữ Hán là Đông Đại Tự.
Trên đường phố Nara, bắt gặp những ngôi nhà cổ, loại nhà một tầng mà
chắc chắn đã có từ rất lâu đời. Trong việc xử lí những di sản này, chỗ
khác của người Nhật vẫn rất rõ. Họ có sự bố trí thế nào để những ngôi
nhà cổ rộng rãi hòa hợp tự nhiên với những cao ốc hàng chục tầng bên
cạnh,-- việc này gợi cảm giác những người sống trong ngôi nhà cổ là
những cư dân lâu đời ở đất này, có thể là họ còn giàu có nữa kia, thì
mới được ở trong những ngôi nhà đó.
Còn ở Việt Nam bên cạnh những cao ốc thường khi cũng có những ngôi
nhà rách nát, làm hỏng hết cảnh quan chung. Những cuộc đền bù bất minh,
hoặc tâm lý thấy ai giàu có là ghen lồng ghen lộn, ì ra ăn vạ… đã là
nguyên nhân làm cho cái cũ cái mới không thể chung sống hòa hợp.
Hai bên đường tới Nara, du khách cũng bắt gặp rất nhiều ngôi chùa.
Đây là một địa điểm được mệnh danh kinh đô của Phật giáo, đã từng là địa
điểm tổ chức Đại hội Phật giáo thế giới.
Nhưng một chuyện buồn lại bắt đầu len vào, khó mà quên được. Đức
hướng dẫn viên chỉ hai bên đường và nói rằng ở đây có rất nhiều cửa hàng
bán đồ dùng dành cho các nhà sư. Anh kể tiếp, nhiều nhà sư Việt Nam đa
đến Nara này, và điều mà người Nhật bản xứ đã sửng sốt là những nhà sư
đó đã mua những trang phục đắt tiền nhất toàn loại những nhà sư các nước
khác không dám mua.
Đức có người bạn đã đi theo đoàn Phật giáo ấy, chứng kiến cảnh mua
bán của các vị sư. Với thói quen của người Sài Gòn, người bạn ấy có hai
phản ứng. Một là lập tức tính sẽ tổ chức những của hàng tương tự ở Việt
Nam để bán cho giới tu hành hám chuyện làm dáng. Hai là nhiều lúc nghĩ
không muốn thành Phật tử nữa bời vì không hiểu vì sao sư mô Việt Nam lại
trần tục đến như vậy.
Một chút so sánh và cảm giác về một nước Nhật quá xa xôi
Khi đi trên đất Nhật tôi hay nhớ lại những lần đến các xứ khác.
Du lịch Trung Quốc, đối với tôi như là một chuyến trở về nguồn. Ở đó
tôi nhớ không chỉ là những lâu đài tráng lệ hay những viên lâm cổ kính
sang trọng – không khí như trong phim Hồng lâu mộng -- mà tôi còn thấy ở đây có những mặt trái, tức cả đời sống cùng cực của người lao động bình thường.
Ở Bắc Kinh, tôi đã vào những ngõ nhỏ mà ở đó người ta, từng cụm dân trong hồ đồng,
phải dùng hố xí tập thể, và con đường quanh co là những mái nhà lợp
tôn, lợp ngói cổ cái thấp cái cao như những hẻm nhỏ Hà Nội. Tôi cũng
thấy người ta buôn gian, bán lận, nói thách, làm hàng giả theo lối làm
tiền chém du khách không tiếc tay.
Bởi Việt Nam luôn là Trung quốc bị hạ thấp hẳn xuống thu nhỏ hẳn lại
cái tốt bớt dần cái xấu tăng thêm, nên tôi càng hiểu những tệ hại của
xứ mình không biết bao giờ mới khắc phục được.
Ngay cả với nước Nga nửa Âu nửa Á, tôi cũng thấy điều gì đó tầm
thường dung tục. Hồi còn Liên xô, đó là những đống đất xây dựng ngổn
ngang ngay ngoài cửa cách hàng rào sân bay không xa; những phiên chợ
nông trường lèo tèo; đám đầu trọc nghênh ngang ngoài đường. Và bây giờ ở
nước Nga của Putin, cái tôi còn nhớ khi đọc các bản tin, là những làng
xóm vắng vẻ, người đàn ông say rượu, những người đàn bà chỉ lo trau
chuốt để bán mình cho các nhà tư sản mới nổi.
Tóm lại thì ở đâu cũng có cái gì đó gần gũi với mình.
Ngược lại, đến với nước Nhật, từ lâu tôi cũng biết là đồng văn đồng
chủng, da vàng mũi tẹt, nhưng ấn tượng còn lại thì lại là một cái gì
khác hẳn so với những ấn tượng đi Nga đi Trung Quốc.
Tôi thấy xã hội Nhật là một cái gì quá đồng đều và quá hoàn chỉnh,
do đó là quá xa xôi, người mình không biết bao giờ mới có thể có một xã
hội hợp lý như của họ.
Tình thế đó của nước Nhật toát ra không phải từ không khí sinh hoạt
của đường phố mà nó thấm vào trong cách sống cách nghĩ của từng con
người, cũng như lối sống rời rã, cái năng động hỗn loạn, và tâm lý bèo
dạt mây trôi đã thấm vào trong cách tổ chức xã hội của người Việt.
Nhớ lại khoảng thời gian mấy năm 75-76. Quá say sưa vì chiến thắng,
người mình có cảm tưởng rằng đã đánh Mĩ được thì làm gì cũng được. Tôi
nhớ không phải ở người dân thường mà ở những cấp lãnh đạo cao nhất hồi
ấy đã có ngưỡng vọng có ngày Việt Nam sẽ đuổi kịp Nhật. Công thức mà tôi
còn nhớ như in là lời truyền miệng như thế này: “Thôi, nói 20 năm thì
hơi lạc quan quá, độ 30 năm nữa thì chúng ta sẽ đuổi kịp Nhật”.
Nhắc lại ảo tưởng đó để hiểu rằng, chiến tranh để đẩy chúng ta chui
vào sừng trâu, và ra khỏi chiến tranh chúng ta đã xa lạ với thế giới như
thế nào. Ta chẳng hiểu gì về người, mà cũng chẳng hiểu gì về chính
mình.
Từ đó, trong cái thế giới hiện đại đang thay đổi từng ngày, ta vẫn nhắm mắt mở, bước đi loạng choạng xiêu vẹo.
Trong sự vội vã điên cuồng lo làm ăn sinh sống, xã hội Việt sau
chiến tranh đã trở thành một xã hội mất hết tự tin. Không ai bảo ai,
không dám thú nhận, song trong thâm tâm, nhiều người chỉ còn tin rằng sẽ
chẳng bao giờ chúng ta theo kịp thiên hạ. Cách sống thời thượng nhất
lúc này là có cái gì bòn mót mang bán lấy tiền. Ăn cắp của nhà nước cũng
được, lột da nhau cũng được, miễn có tiền. Rồi đi nước ngoài mua sắm
những thứ xịn nhất, mới nhất, hiện đại nhất. Rồi lấy đó làm niềm tự hào
rằng người mình cũng đang có sự tiến bộ vượt bậc theo kịp các nước trên
thế giới.
Mấy năm gần đây, nhờ sự trợ giúp của phía đối tác nước ngoài, các
trường đại học ở ta thường mở ra các cuộc hội thảo văn học so sánh,
trong đó nhiều báo cáo của giảng viên Việt trình bày như là có một bước
tiến song song giữa văn học Nhật Bản hiện đại và văn học VN thế kỷ XX,
rồi bước tương đồng giữa văn học Nhật đương đại và văn học Việt Nam hôm
nay. Trên một số phương diện khác của đời sống cũng vậy. Một cái gì
giống như ảo tưởng đang chi phối cái nhìn người Việt khi chúng ta làm
cái việc đối sánh giữa mình với người, và các đồng nghiệp Nhật vì lịch
sự cũng không tiện bác bỏ. Thường những lúc nghe vậy, trong tôi có cái
cảm giác xót xa như khi thấy người ta xoa đầu mình coi mình là một lũ
trẻ con. Trong những ngày du lịch bụi ngắn ngủi này, cái cảm giác xót xa
ấy lại trỗi dậy để mà càng cảm thấy nó một cách thấm thía hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét