Sau khi kinh tế xã hội rơi vào vòng khó khăn, chúng ta cần nhìn
lại để biết đâu là “gót chân Achilles” của chính mình. Sự phát triển và
trưởng thành của một dân tộc luôn từ những cuộc tự vấn. Qua câu chuyện
với nhà báo Lê Ngọc Sơn, nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn có những tâm sự
đầu năm với các bạn sinh viên, theo ông, có nhìn lại bản thân mình thì
mới sinh tồn được qua những khó khăn phía trước.
CHUYỆN “HẠ TẦNG KIẾN THỨC”
Lê Ngọc Sơn: Thưa ông, vì sao ông đi dịch những cuốn sách triết học đồ sộ và kinh điển của thế giới?!
Bùi Văn Nam Sơn: Thực ra tôi già rồi, thời gian của tôi không
còn nhiều nữa, tôi chỉ cố gắng làm cái gì trong khả năng của tôi thôi.
Tôi tự đặt ra cho mình nhiệm vụ chính bây giờ là dịch một số các tác
phẩm kinh điển sang tiếng Việt. Vì lẽ, thứ nhất, những quyển sách dạng
này khô khan chẳng ai thèm dịch; thứ hai, nếu không dịch những quyển này
thì không biết bao giờ người ta mới dịch… trong khi đó là những nền
tảng cho các anh em trong chuyên ngành. Nhìn vào thư viện của Việt Nam
mình, chưa thấy có mấy sách kinh điển của nhân loại, tôi thấy buồn lắm.
Thành thực mà nói, không thể đòi một bạn sinh viên đọc tiếng Anh hay các
ngoại ngữ khác vèo vèo như đọc tiếng Việt được. Vả lại, quả là không
công bằng! Một người cùng trang lứa với các bạn sinh viên của ta, như
những sinh viên ở Pháp, Mỹ, Đức, Nhật… thì họ dùng ngôn ngữ mẹ đẻ của
họ, họ đỡ vất vả hơn nhiều lắm. Bây giờ đòi hỏi những bạn cử nhân mới 23
tuổi ngồi đọc một cuốn sách kinh điển dày cộp bằng tiếng Anh, thậm chí
bằng tiếng Đức… làm sao mà đọc nổi… Đâu phải sinh viên Mỹ nào cũng đọc
được tiếng Đức, hay sinh viên Pháp nào cũng đọc được tiếng Anh thông
thạo… Thế mà họ vẫn thành công, vì họ sử dụng các bản dịch có chất
lượng, và các công trình nghiên cứu của họ vẫn đạt được trình độ quốc
tế.
Ở Việt Nam, ít ai làm việc dịch thuật, thế nên gánh nặng đè lên vai
những anh em trẻ. Lứa tuổi 18-25 phải gánh cả một gánh nặng, vừa học
kiến thức, vừa học ngoại ngữ. Do trở ngại về ngôn ngữ, mình khó có thể
nắm vững vấn đề và tra cứu đến nơi đến chốn. Điều đó không phải lỗi của
thế hệ trẻ, đó là lỗi của thế hệ đi trước, như chúng tôi, không kịp
chuẩn bị tư liệu nền cho các bạn. Thật là quá cực, quá tội cho các bạn!
Còn việc chúng ta phải nỗ lực học ngoại ngữ lại là chuyện khác! Khi
tiếng Anh đã trở thành một lingua franca trong khoa học, việc
đọc, viết, nói thành thạo tiếng Anh trong các ngành khoa học tự nhiên và
kỹ thuật là một yêu cầu hiển nhiên. Trong các ngành khoa học xã
hội-nhân văn, còn cần thêm nhiều ngoại ngữ lẫn cổ ngữ khác nữa, nhưng
vấn đề nói ở đây là không thể đòi hỏi những gì bất khả thi và quá sức…
Lê Ngọc Sơn:Thời sinh viên của ông ắt hẳn thấm thía nỗi vất vả này lắm?
Bùi Văn Nam Sơn: Đúng. Thời sinh viên, tôi cũng đã rất “đau
khổ” vì thiếu sách tiếng Việt. Năm 21 tuổi, tôi sang Đức học, sau khi
học xong cử nhân ngành Triết ở Sài Gòn, lúc đó tự thấy vốn liếng chữ
nghĩa cũng kha khá rồi... Khi sang đó thì từ bậc cử nhân cho đến tiến
sĩ, từ người mới vào trường đến người sắp ra trường đều có thể học chung
một lớp. Lớp của tôi có mấy ông bạn người Nhật Bản, người Hàn Quốc… Lúc
đó các bạn Hàn Quốc cũng khổ sở, vật vã như mình, vì nước họ có rất ít
những bản dịch ra tiếng Hàn, và cũng như tôi, chưa thể đọc tiếng Đức
thành thạo được. Trong khi đó mấy chàng Nhật Bản còn trẻ măng, mới 19
tuổi, vừa học xong tú tài, lại tỏ ra am hiểu và tự tin lắm! Tôi kinh
ngạc, thì các bạn ấy mới mở túi cho xem một đống sách toàn tiếng Nhật:
những bản dịch Hegel, Kant, Heidegger…, sách tham khảo, từ điển. Mình
mất cả năm vật lộn với một cuốn sách, họ chỉ cần vài tháng là đọc xong.
Thời gian mình đầu tư cho chuyện đọc đã quá mất sức rồi, làm sao có thể
suy nghĩ hay tìm tòi thêm được cái gì mới nữa. Khoảng cách về điều kiện
nghiên cứu giữa mình với người Nhật thật rõ rệt!
Riêng trong lĩnh vực triết học, sách vở mênh mông, còn số dịch giả
thì đếm trên đầu ngón tay… Lẽ ra cần cả một thế hệ chuẩn bị nền móng,
cho các bạn trẻ sau này đỡ cực hơn. Tất nhiên, ý nghĩa của việc dịch
thuật không phải chỉ có thế. Nó còn góp phần xây dựng ngôn ngữ khoa học
cho một đất nước, đem ánh sáng khai minh đến cho số đông để cải hóa xã
hội, như nhiều bài viết mới đây của quý Thầy Nguyễn Xuân Xanh, Nguyễn
Văn Tuấn, Trần Văn Thọ… đã nhấn mạnh.
Lê Ngọc Sơn: Vậy cho đến nay, so với các nước trong khu vực, chúng ta đang thế nào, thưa ông?
Bùi Văn Nam Sơn: Cách đây chừng 5-7 năm, chính ông bạn người
Hàn Quốc ngày xưa học chung với tôi, về dạy ở Đại học Seoul, viết thư kể
cho tôi nghe: ông và thế hệ trước đó, từ những năm 1970 trở đi đã bắt
tay vào dịch sách vở cho Hàn Quốc. Hầu hết những tác phẩm kinh điển quan
trọng từ tiếng Đức đã được dịch sang tiếng Hàn, hết toàn tập này đến
toàn tập khác, mà mỗi toàn tập của một tác giả thì có đến 40-50 tập. Tôi
rất kinh ngạc về sức làm việc của họ. 40 năm thôi, nhưng với trách
nhiệm với đất nước và đàn em, họ quyết tâm làm được việc lớn như thế.
Vậy thì ngày hôm nay, làm sao sinh viên của ta có thể “đấu” lại được một
sinh viên Hàn Quốc, trong khi cách đây 40 năm, anh sinh viên này cũng
vất vả y như mình. Khoảng cách đó thật khủng khiếp!
Việc học hành nghiêm chỉnh, tiếp thu có hệ thống đã là thách đố ghê
gớm, và cái đó cần nhiều thế hệ mới vượt qua được, ít nhất cũng là 30-40
năm như Hàn Quốc. Chúng ta đừng vội nói gì cao xa, sách vở đàng hoàng
là nền móng cơ bản nhất của nền học vấn và của nền đại học.
Lê Ngọc Sơn:Vì sao chúng ta không làm được như những nước ở
gần mình như Nhật, như Hàn? Và ông có thấy được cuộc đua tranh trên thế
giới về mặt tri thức đang diễn ra rất quyết liệt?
Bùi Văn Nam Sơn: Chúng ta thiếu tính tổ chức, thiếu khả năng
làm việc tập thể và một kế hoạch trường kì của cả một tầng lớp, của cả
một thế hệ. Mỗi thế hệ phải thấy trách nhiệm lịch sử của mình, thấy tình
trạng khách quan đặt ra cho mình gánh nặng nào, và họ phải giải quyết
một cách thông minh nhất, ít tốn sức nhất, với sự bền bỉ và quyết tâm.
Thế hệ sau thừa hưởng và nối tiếp thành quả của những người đi trước,
thì nền học thuật cứ thế đi lên thôi.
Tôi được cho biết rằng ở Nhật, những tạp chí khoa học chuyên ngành
trên thế giới hầu như lập tức được dịch sang tiếng Nhật, vì họ có nhu
cầu cạnh tranh. Nếu không theo kịp thông tin mới, làm sao có thể cạnh
tranh trên thị trường thế giới, làm sao bắt kịp trình độ quốc tế để đi
dự hội thảo khoa học?
Trở lại tình cảnh của ta, cơ sở hạ tầng về kiến thức là phần rất
chểnh mảng. Cái cơ bản nhất thì lại bị xem nhẹ… Bây giờ cứ hô hào sinh
viên sáng tạo đi, có công trình đột phá đi, hãy phản biện đi… Nhưng phải
biết người ta đã viết gì, nghĩ gì, ta mới phản biện và có ý kiến riêng
được chứ!
SỬA SOẠN TINH THẦN, CHUẨN BỊ YÊN CƯƠNG
Lê Ngọc Sơn:Trong quan niệm của ông, một bạn sinh viên phải thế nào?
Bùi Văn Nam Sơn: Theo tôi, thời gian được học đại học là
quãng thời gian đẹp nhất, quý nhất của một đời người. Khi ta đang ở
trong quãng thời gian đó, thường không thấy quý đâu, nhưng sau này nhìn
lại mới thấy đây là thời gian quý nhất, “sướng” nhất. Được trở thành
sinh viên là một bước ngoặt. Chữ “sinh viên” khác về chất với chữ “học
sinh”. Ngay bản thân chữ “sinh viên” đã cho thấy sự khác biệt ấy:
Sinh viên trong tiếng Anh và tiếng Đức là “student”, trong tiếng Pháp
là “étudiant”, liên quan đến 3 động từ: to study, studieren, étudier ít
nhiều đều mang hàm nghĩa là “nghiên cứu”. Sinh viên là phải nghiên cứu,
chứ không chỉ thụ động tiếp thu kiến thức... Trong tiếng Việt, “sinh
viên” có chữ “viên”, nghĩa là đã có một vị trí nào đó... Do vậy, cần ý
thức được điều này để cả người dạy lẫn người học ở bậc đại học nhận thức
được trách nhiệm của chính mình. Dạy và học ở đại học không chỉ là
truyền thụ và tiếp thu kiến thức mà chủ yếu là gợi hứng cho nghiên cứu.
Ngay cả ở trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông cũng có vấn đề.
Những năm 1970 về trước, mang tấm bằng tú tài của Việt Nam sang Tây Âu
là được chấp nhận hầu như tương đương, còn những bằng tú tài của Thái
Lan, Malaysia, Indonesia… thì buộc phải học lại một năm, tức chỉ bằng
đầu lớp 12 bên đó. Bây giờ thì như thế nào? Chúng ta phải nghiêm túc tự
vấn về mình...
Lê Ngọc Sơn: Ở các nước phát triển, khoa học trú ngụ ở đại học, tại sao ở các đại học ở ta thì chưa thấy gì, thưa ông?
Bùi Văn Nam Sơn: Theo tôi là do không phân biệt rạch ròi giữa
đại học và trung học. Trường đại học dứt khoát không phải là trường phổ
thông cấp 4. Nó khác về chất trong hệ thống giáo dục quốc gia. Đại học
cũng không phải là trường dạy nghề, trường dạy nghề lẽ ra cần có một hệ
thồng khác, cũng cao cấp và sáng giá không kém gì đại học. Ở Đức, sau
khi đỗ tú tài, ta có hai con đường để lựa chọn, một là các trường kỹ
thuật, trường dạy nghề chuyên nghiệp dành riêng cho những kỹ sư thực
hành, rất hay và thiết thực, ra trường dễ kiếm việc làm và lương cao.
Hoặc hướng thứ hai là nghiên cứu: cũng có thể là khoa học-kỹ thuật nhưng
nặng về lý thuyết. Do có hai hướng rõ ràng như vậy, dựa vào việc phân
định khách quan về nhiệm vụ, nên khi vào đâu, ta sẽ biết làm cái gì,
biết rõ tính chất của trường mình. Việc “liên thông” giữa hai loại
trường này lại là chuyện khác nữa!
Do đó, đại học đương nhiên mang tính chất nghiên cứu, dù ở năm thứ
nhất cũng là nghiên cứu, ở bậc tiến sĩ, hay sau tiến sĩ cũng là nghiên
cứu. Từ sinh viên đến giáo sư đều làm nghiên cứu. Không khí của đại học
là nghiên cứu. Thành ra, cái mà ta đang nhầm lẫn ở đây là nhẫm lẫn tính
chất của đại học, dẫn đến hệ quả rất trầm trọng là biến đại học thành
trường dạy nghề, và biến trường dạy nghề thành ra cái gì đó rất là yếu
kém và yếu thế. Đã đi học để nghiên cứu thì phải toát ra tinh thần
nghiên cứu, tức là toàn bộ giáo sư và sinh viên là một cộng đồng nghiên
cứu, người đi trước hướng dẫn, dìu dắt người đi sau, không ngừng hình
thành những chuyên ngành mới, những trường phái mới… Nghiên cứu có nhiều
cấp độ, cấp thấp/ cấp cao, dễ/ khó… Cũng tránh hướng suy nghĩ rằng,
nghiên cứu là cái gì đó cao xa lắm, thực ra đâu phải vậy: ngay năm thứ
nhất, bạn cũng đã phải có tư duy nghiên cứu rồi, tự tìm tòi phương hướng
và phương tiện nghiên cứu của mình với sự giúp đỡ của người đi trước.
Vì thế, hình thức Sêmina ngày càng chiếm ưu thế. Sêmina là
lao động tập thể của sinh viên lẫn giáo sư, của thầy và trò, cùng nhau
tìm tòi tài liệu, tổng kết, nhận định, đánh giá những gì đã có, đó là
những hình thức ban đầu của nghiên cứu ngay từ năm thứ nhất.
Lê Ngọc Sơn: Theo ông, sinh viên phải chuẩn bị những gì cho một tương lai đầy thử thách trước mặt?
Bùi Văn Nam Sơn: Người Pháp có câu ngạn ngữ: “muốn đi xa phải chăm sóc yên cương” (“Qui veut aller loin, ménage sa monture”/Racine),
nghĩa là, phải biết dưỡng sức và chuẩn bị phương tiện. Đi mười dặm thì
đơn giản, nhưng đi trăm dặm, nghìn dặm, vạn dặm… thì lại khác. Công việc
học cũng vậy thôi, nếu chỉ nghĩ lấy cái bằng ra để kiếm việc làm, nuôi
sống bản thân thì khá đơn giản, nhưng nếu muốn tiến xa trong chuyên
ngành của mình thì phải chuẩn bị cho 30, 40 năm sau về cả ý thức lẫn sức
lực.
Chắc bạn biết rằng trên 30 tuổi rất khó học ngoại ngữ, do nguyên
nhân sinh lý thôi, trên 30 tuổi thì các nơ-ron thần kinh già đi, giảm
thiểu khả năng tiếp thu. Vậy thì phải luyện rèn ngoại ngữ trước 30 tuổi.
Người làm nghiên cứu cần trang bị cho mình nhiều ngoại ngữ. Đối với các
ngành khoa học tự nhiên và kỹ thuật, cần phải có hai ngoại ngữ thông
dụng. Đối với người làm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội-nhân
văn, thì càng nhiều càng tốt, cả cổ ngữ nữa. Đó là vốn liếng tối thiểu
để nghiên cứu.
Lê Ngọc Sơn: Cần tạo cảm hứng ham hiểu biết của anh chị em sinh viên như thế nào, thưa ông?
Bùi Văn Nam Sơn: Theo quan sát của tôi, hiện nay, anh chị em
sinh viên đang chịu nhiều áp lực thi cử quá mức. Cần tạo một khoảng hở
để anh chị em sinh viên vui chơi, và có… chơi nhiều thì mới thấy việc
học là thú vị, không học thì tiếc, và thế là lao vào học. Học trong sự
say mê. Hãy tạo không gian tự do để anh chị em cảm thấy hứng thú nghiên
cứu, chứ suốt ngày bị áp lực thi cử, hay sợ tương lai của mình phụ thuộc
vào thi cử…thì những việc đó làm hao tổn năng lượng của anh em trẻ một
cách quá đáng! Thể lực và thể thao đại học cũng là hiện tượng rất đáng
lo ngại, chưa nói đến những hình thức tiêu cực phản giáo dục…
Lê Ngọc Sơn: Chúng ta nên bắt đầu lại thế nào để xây dựng lại tinh thần đại học một cách tử tế?
Bùi Văn Nam Sơn: Hình như ta đang có cao vọng là phấn đấu
đứng vào hàng ngũ những đại học tiên tiến trên thế giới. Tôi nghĩ là khó
vô cùng! Với những gì hiện có, tôi e chuyện đó là ảo tưởng. Nhiều thập
kỷ nữa chưa chắc mình đã vào được hàng ngũ những đại học trung bình ở
khu vực, chứ đừng nói đại học đẳng cấp quốc tế. Và để có cơ may làm được
điều đó thì việc trước tiên là phải thay đổi tính chất của đại học hiện
nay.
Điều đáng lo là chúng ta không lo những chuyện bình thường, coi nhẹ
những chuyện bình thường. Chuyện lẽ ra ai cũng phải làm, nước nào cũng
phải làm thì mình lại xem thường, mình chỉ muốn làm những gì khác
thường, phi thường. Làm sao làm những chuyện khác thường, phi thường khi
cái bình thường, ta chưa làm được? Hãy là cái gì bình thường trước đã.
Những đại học, học viện trên thế giới người ta là cái gì thì mình là
đúng cái đó đi đã: đầu tư cho sách vở đầy đủ, đầu tư cho con người,
không gian học thuật, v.v...
ĐI XA CẦN CÓ BẠN ĐƯỜNG VÀ TẬP HIỂU NHỮNG ĐIỀU KHÁC BIỆT
Lê Ngọc Sơn: Như vậy, sẽ phải bình tĩnh để nhìn lại năng lực tự thân và hướng đi của mình?
Bùi Văn Nam Sơn: Vâng. Một nền giáo dục lạc hậu thì đuổi mãi
chắc rồi cũng bắt kịp, nhưng lạc hướng thì chịu thua. Chúng ta thường
mong làm những điều phi thường, nhưng đôi khi thực chất nó lại là nghịch
thường. Những cách làm của mình hiện nay là trái với bình thường, không
giống ai và không có ai làm như thế cả. Trên thế giới, nền giáo dục
quốc gia được định hình tư lâu lắm rồi. Những định chế khoa học cũng đã
định hình từ xa xưa với hơn 700 năm kinh nghiệm. Họ làm gì, ta làm nấy
cho giống đại học cái đã, rồi phát triển dần lên.
Lê Ngọc Sơn: Phía trước là cả chặng đường dài, theo ông, các bạn sinh viên nên làm gì?
Bùi Văn Nam Sơn: Theo tôi các bạn trẻ cần hình thành ý thức tự học và xác định tinh thần đi xa phải có bạn đường. Thứ nhất,sinh
viên cần có tinh thần tự học trọn đời, nghiên cứu trọn đời. Ngay cả khi
đã “bỏ nghề”, nhưng nếu còn tha thiết với nó, ta vẫn tìm sách mà đọc,
cố gắng hết sức trong thời gian eo hẹp để làm giàu tri thức cho mình,
nâng chất lượng cuộc sống mình lên. Đó là tinh thần tự học. Thứ hai,
đã có tinh thần tự học, thì hoàn cảnh nào đi nữa vẫn có thể tham gia
làm việc từng nhóm với nhau. Bạn có thể sinh hoạt với nhau trong một
nhóm bạn hữu tâm giao, có thể theo đuổi một công việc tình nguyện, không
ăn lương, thậm chí không dính đến bộ máy hay tổ chức nào cả. Chúng ta
cần những nhóm người nhiệt huyết, không lệ thuộc vào đồng lương nhà
nước, cơ quan… Cái có sức sống nhất chính là những nhóm nghiên cứu độc
lập, tự nguyện, vô vị lợi, chủ yếu là vì lòng say mê, tình tri kỉ… được
hình thành ngay thời sinh viên. Cho nên tình bạn trong đại học không chỉ
là vui chơi, chính tình bạn có tính tự nguyện này là mầm mống cho những
hoạt động khoa học bền bỉ. Trong lịch sử khoa học, có những nhóm nghiên
cứu kết bạn với nhau từ hồi sinh viên cực kì khăng khít, đã tạo ra
những công trình phi thường.
Lê Ngọc Sơn: Theo ông, làm sao để người trẻ kiên trì trên con đường nghiên cứu?
Bùi Văn Nam Sơn: Đã là sinh viên đúng nghĩa thì ta phải ham
chuyên môn của mình ngay từ khi bước chân vào trường đại học. Bước vào
giảng đường, thư viện hay phòng thí nghiệm, ta cảm thấy linh thiêng, hào
hứng, thì mới có hi vọng thành tựu. Ít ra là cũng ham đọc sách, chứ cầm
cuốn sách mà đọc vài trang là lăn ra ngủ thì không thể nào đi xa được
đâu. Phải mê sách vở, mê nghiên cứu, mê chữ nghĩa,... thì mới có triển
vọng. Dần dần thành thói quen, trong đó có thói quen tập đọc, tập chịu
đựng: cái khó nhất trong học tập, nghiên cứu là chịu đọc những cái mà
mình không thích. Đọc một cách nghiêm chỉnh, không thành kiến những gì
không giống mình. Nghiên cứu là để hiểu vấn đề và hiểu người khác một
cách nghiêm chỉnh, trung thực. Đừng vì ghét quan điểm của tác giả nào
đó, rồi chưa đọc kỹ về họ đã bác bỏ hay xuyên tạc họ. Cố tình hạ thấp họ
để nghĩ mình thắng họ, thì thực chất họ cũng chẳng thấp hơn được. Phải
hiểu một cách chân thực, phản bác họ bằng luận cứ. Và để làm được điều
đó thì, như đã nói, phải chịu khó đọc những cái mình không thích, học
những môn mình không ưa. Tập thói quen này khó lắm đó, nhưng hoàn toàn
có thể làm được.
Dù có nhiều khó khăn đón chờ phía trước, nhưng xin hãy cứ kiên trì, rồi mùa hoa trái sẽ tới!
Xin cảm ơn ông!
Lê Ngọc Sơn (Thực hiện)
Rải băng: Tạ Thương
(Bài đăng trên báo SVVN số Xuân Quý Tỵ 2013)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét