Trần Thu Dung
Một lần anh bạn Việt kiều Mỹ qua
Paris chơi, rủ nhau đi ăn tiệm. Tôi hỏi anh thích nếm hương vị quê hương hay
hương vị Pháp. Anh bạn đề nghị ăn đồ Tây với lý do đến đâu phải nếm đặc sản
nước đó, đặc sản Việt Nam: nem, phở, bún, bánh cuốn... bên Mỹ bán đầy khắp. Hóa
ra đặc sản Việt Nam bây giờ du lịch khắp thế giới, đặc biệt là ở Pháp và Mỹ -
hai nước có lịch sử liên quan đến Việt Nam. Nhiều người nước ngoài biết đến
nem, phở. Điều ngạc nhiên phở là món ăn quốc hồn quốc túy của Việt Nam không
nằm trên mâm cơm thờ cúng tổ tiên. Tết Việt Nam gắn liền với bánh chưng, nem,
măng hầm, bóng xào chứ không phải phở.
Phở là món đặc sản truyền thống của
Việt Nam. Truyền thống, theo từ điển Pháp định nghĩa là những vật thể và phi vật
thể được truyền từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Bánh chưng, nem là những món ăn
truyền thống đã có từ nhiều thế kỷ. Phở cũng là món ăn truyền thống, vì nó đã
được nhắc đến trong tùy bút, văn của một số nhà văn thời tiền chiến, như Nguyễn
Công Hoan nhắc đến phở từ 1913 *. Nếu tính đến năm nay Phở Việt Nam đã có trên
100 năm, truyền từ đầu thế kỷ 20 sang đến thế kỷ 21. Những món ăn có ghi vào
trong từ điển là những món ăn đã nổi tiếng và quen thuộc với dân tộc đó. Phở đã
có mặt trong từ điển.
Trâu bò thường xuyên gắn với đời
sống nông nghiệp ở Việt Nam. Người nông dân thường tính gia sản không phải bằng
tiền vàng, mà số lượng trâu bò tậu được. Khác với trâu, bò hầu như vắng bóng
trong văn hóa Việt Nam. Trâu được nhắc rất nhiều trong đời sống văn hóa Việt
xưa. Hình ảnh chú bé chăn trâu đã quen thuộc với người Việt Nam. Đồng tiền Đông
Dương do Pháp ấn hành có hình trâu cày. Tranh dân gian hay ca dao, tục ngữ thường
chỉ nhắc đến con trâu: con trâu là đầu cơ nghiệp, ruộng sâu trâu nái, con trâu
đi trước cái cày đi sau. Con bò vắng bóng trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, và
tranh dân gian. Lễ hội chọi trâu, đâm trâu là truyền thống lâu đời của dân tộc
Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay. Chu kỳ 12 năm trong lịch âm, có năm trâu,
không có năm bò, dù bò cũng gắn liền với nghề nông. Truyện cổ tích dân gian kể
về sự liên quan mật thiết giữa người và trâu. Cuội đi chăn trâu lừa phú ông.
Trí khôn của ta đây ca ngợi sự thông minh của người nông dân điều khiển được
trâu cày và lừa được hổ. Sự tích trầu cau để giải thích tục lệ ăn trầu.
Nhiều món dân tộc đã đi vào thành
ngữ ca dao tục ngữ: "Ông ăn chả bà ăn nem ”, "Tay cầm bầu rượu nắm
nem… mải vui quên hết lời e dặn dò"; "Ra đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh
rau muống, nhớ cà dầm tương"… Nhiều làng đã gắn với tên tuổi của sản phẩm
như bánh cuốn Thanh Trì, bánh đúc làng Kẻ, tương Cự Đà, cốm làng Vòng, bánh
chưng bánh dầy từ thời Văn Lang… Ca dao truyền khẩu dạy chế biến các món dân
gian: "con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, con chó
khóc đứng khóc ngồi, mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng", "Khế xanh nấu
với ốc nhồi, Tuy nước nó xám nhưng mùi nó ngon".
Điểm qua văn chương cổ không thấy
tả vua chúa ăn phở bò, hay tả về món phở bò. Phở chỉ xuất hiện trong văn thơ
thời Pháp thuộc, Tú Mỡ, Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan… Bò,
phở gần như vắng hoàn toàn trong văn hóa dân gian Việt. Điều này chứng tỏ bò và
phở xa lạ với người Việt Nam trước thế kỷ 20. Các sản phẩm từ sữa bò quen thuộc
với người châu Âu, xa lạ với người Việt thời đó: sữa tươi, bơ, phô-ma, sữa
chua. Chăn nuôi bò là một ngành phát triển mạnh ở Pháp. Pháp nổi tiếng có hơn
100 loại phô-ma khác nhau, hầu như đều là sản phẩm từ sữa bò. Khi người Pháp chiếm
Đông Dương, nhu cầu về sữa bò, và phô-ma bơ, thịt bò là nhu cầu thiết yếu của
họ. Cà phê sữa, uống sữa là thói quen của người Pháp. Người Việt Nam chỉ uống
trà. Quan niệm xưa chung của dân châu Á, ai uống sữa động vật nào là sẽ biến
thành con vật đó. Chỉ có tầng lớp nhỏ trung lưu làm việc với Pháp mới biết khẩu
vị “Tối rượu sâm-panh, sáng sữa bò”.Trong cuốn “Địa lý về sữa, in 1940,
P.Veyrey đã nhận định sữa ở Annam chỉ phục vụ cho một số tầng lớp khá giả. Bò
và sản phẩm từ bò không quen thuộc đối với người Đông Dương. Trẻ con ở đây bú
mẹ đến 3, 5 tuổi. Dân các nước Đông Nam Á không dùng sữa, bơ. “Dân bơ sữa” là
thành ngữ mới, chỉ đám con nhà giàu sang. Việt Nam chỉ nuôi trâu. Trâu khỏe
giúp cho cày ruộng. Trâu chết, ốm yếu mới được ăn thịt. Thời trước chỉ có món
xáo trâu. Không có món ăn nào của Việt Nam liên quan đến thịt bò được nhắc đến
trước thế kỷ 20. Chứng tỏ bò hầu như không có mặt ở Việt Nam.
Bò châu Á là giống bé nhỏ, có bướu
và rất ít do không đem nhiều lợi ích trong cuộc sống như trâu. Trâu to và khỏe,
sức chịu đựng dẻo dai. Người nông dân Việt trước kia nuôi trâu. Người Pháp khi
đến Đông Dương chê bò có bướu châu Á còi cọc, ốm yếu, gầy giơ xương, túi hai
bên sườn rỗng, không có thịt. Người Pháp đã quyết định nhập bò sữa từ
Normandie, và một số từ Ấn Độ, bò Thụy Sỹ, bò Bretagne và cho lai tạo với hy
vọng tạo ra một giống bò mới, to khỏe chịu đựng được khí hậu nhiệt đới, và cho
nhiều sữa, thịt. Yersin đã đệ thư xin chính phủ bảo hộ cho nhập bò, gà Thụy Sỹ.
Năm 1898, Pháp đã bắt đầu nhập bò vào Việt Nam. Chuyên gia nuôi bò ở Limousin
được gửi sang Đông Dương để hướng dẫn cách nuôi. Do chặng đường vận chuyển bằng
tàu từ Marseille đến Đông Dương và khí hậu thay đổi hoàn toàn khác, nhiều con
đã chết hay kiệt sức trên đường đi. Một số bò được thử thả nuôi, chết vì hổ,
voi rừng. Sau đó bò được giao cho nông dân nuôi (có lẽ từ đó người nông dân
Việt Nam mới nuôi bò). Người Pháp dạy cho nông dân bản xứ cách nuôi bò, vắt
sữa. Sữa và thịt bò chỉ bán trong các thành phố lớn và chỉ có người Pháp tiêu
thụ vì giá thành quá cao. 1 cân thịt bò 30 cents. Cũng vì vậy công nghệ làm bơ,
phô-ma không thể làm tại địa phương, phải nhập từ mẫu quốc do số lượng người
dùng ít. Việc nuôi bò thịt và sữa không đem lại lợi nhuận so với khai thác cà
phê, cao xu, mỏ… Chăn nuôi bò gần như không thành công tại Đông Dương.
Như vậy công nghệ chăn nuôi bò lấy
thịt và sữa là do người Pháp đem vào. Điều đó khẳng định phở bò chỉ có đầu thế
kỷ 20 vì chuyến bò nhập đầu tiên là năm 1898. Bò rất đắt quý, vì vậy mới có
thành ngữ ồn ào (cãi nhau) như mổ bò là thành ngữ mới. Mổ bò là ngày hội lớn
của làng, phải đem ra bàn bạc ở đình làng Một vài thành ngữ mới xuất hiện đầu
thế kỷ 20: Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết; Ngu như bò, cùng với trò chơi đấu
bò, thi cưỡi bò ở miền Tây. Thời nay phở trở nên món ăn hấp dẫn quen thuộc nên
được ví như bồ.
Cuốn từ điển của Alexandre de
Rhodes năm 1651 không có từ phở. Trong bài khảo luận về dân Bắc Kỳ, Tạp chí
Đông Dương (15/9/1907), Georges Dumoutier nói về những món ăn phổ biến ở Bắc
Kỳ, không điểm danh phở. Khảo sát việc nhập bò, chăn nuôi bò thời Đông Dương
chứng minh phở chỉ xuất hiện đầu thế kỷ 20. Phở sớm được ưa thích, nên phở xuất
hiện trong văn thơ thời Pháp thuộc, và chỉ hơn chục năm sau, phở có trong từ
điển. Từ điển của Gustave Hue (Dictionnaire Annamite-Chinois-Français) xuất bản
năm 1937 định nghĩa: “Cháo phở: pot-au-feu”.
Người Pháp dịch phở là pot au feu
(pô-tô-phơ). Pot au feu - món súp hầm thịt bò là món ăn truyền thống của Pháp.
Phở chính là sự sáng tạo của người Việt khi giao lưu với văn hóa ẩm thực Pháp.
Xét về nguyên liệu thì nồi nước súp cổ truyền của người Pháp gần giống nồi nước
dùng nấu phở trừ rau củ. Thịt bò toàn những thứ cứng và dai: đuôi, gân, sườn,
đùi thăn, dạ dày, bạc nhạc. Tất cả hầm chung với hành củ và quế, hoa hồi, hạt tiêu.
Nước dùng được lọc 1 lần cho trong, khi thịt gân mềm cho rau, củ (cà rốt, cần
tây, khoai tây). Phở có dùng hành tây nướng, bóc vỏ bỏ vào nước dùng cho thơm.
Hành Tây củ chỉ có khi Pháp vào Việt Nam, nên gọi là hành Tây. Anis (hoa hồi)
cũng không phải là hương vị quen thuộc của người Việt.
Người Pháp sống ở Đông dương với
nỗi nhớ quê hương và các món ăn dân tộc họ. Họ đã bày cho những người đầu bếp
Việt Nam nấu món này. Thấy món ăn hấp dẫn dễ ăn, người Việt đã Việt Nam hóa một
cách sáng tạo món súp bò của Pháp bằng cách dùng thêm hương liệu Việt Nam có
sẵn như gừng nướng, quế và thay thế khoai tây bằng bánh đa tươi thái sợi. Bánh
đa, bánh cuốn là bánh có từ lâu đời của người Việt Nam. Nước dùng nấu như pot
au feu nhưng không cho rau củ. Người Pháp khi ăn súp này thì vớt thịt miếng to
cho vào đĩa sâu, ai ăn thì tự lấy cắt nhỏ ra, rưới thêm nước súp và rau khoai,
ăn với bánh mỳ. Người Việt không dùng dao nĩa như người Pháp, mà dùng đũa, nên
thịt thái nhỏ theo phong tục thói quen người Việt. Xã hội Việt Nam còn nghèo,
miếng thịt to như thế là một thứ xa xỉ phẩm. Nhiều chuyện kể, bố và bạn ngồi
nhấm rượu với thịt, vợ con ngồi chờ dưới bếp thập thò hy vọng còn thừa để ăn.
Thái thịt chín mỏng là tài nghệ của người đầu bếp. Thịt chín, thịt gân thái
mỏng giơ lên thấy cả ánh sáng mặt trời, nhưng không được rách vỡ, miếng gân,
ngầu trong vắt, khi rưới nước phở lên, nước dùng thấm xuyên qua miếng thịt, ăn
miếng thịt mới cảm thấy đậm đà. Thịt hầm không nát. Gân phải mềm. Người Pháp ăn
món súp bò thả hành và rắc rau mùi tây lên trên. Việt Nam, phở bò nguyên gốc Hà
Nội cũng chỉ rắc hành và mùi và thịt chín. Thịt bò nạc mềm đắt, nên chỉ dùng
nguyên liệu rẻ tiền nhất trong thịt bò. Theo Clotilde Chivas-Baron, Marie-Paule
Ha kể các Sơ đầu tiên đến Đông Dương nhận quà tặng là một con bò sữa khi mới
thành lập “La Sainte Enfance” ở Sài gòn. Lúc đó ban truyền giáo nghèo, nhà lợp
lá, 20/05/1860. Trại có chuồng nuôi gà và một con dê,…”. Bò là món quà tặng quý
hiếm lúc đó. Nên mặc dù nguyên liệu nấu phở bò là thứ rẻ tiền nhất, phở thời đó
chưa phải là món bình dân như thời nay. Giá một bát phở từ 2 đến 5 xu, tương
đương một ngày công lao động vất vả của người công nhân làm cho Pháp.
Phở xuất hiện đầu thế kỷ 20, do đó
không có mặt trong ngày Tết cổ truyền dân tộc.
Phở là món ăn ảnh hưởng món súp bò
của Pháp. Vậy từ phở do chữ “Feu / phơ” mà ra. Tiếng Việt đơn âm, người Việt
lúc đó đại đa số không biết tiếng Pháp, do tiếp xúc làm việc phục vụ cho người
Pháp, họ nói tiếng Tây bồi, họ thường hay rút ngắn từ tiếng Pháp, nhất là khi
nghe không rõ họ hay lấy từ đầu hay cuối cùng để gọi như Galon (phù hiệu quân
hàm) gọi đơn giản là lon, biscuit (bánh qui - lấy âm qui đằng sau từ biscuit),
chèque (séc), essence (xăng), affaire (phe), démarrer (đề), alcool (cồn), beige
(be), dentelle (ren, cartouche (tút)… Chỉ có người Pháp thời đó làm việc quen
với mấy người phục vụ mới hiểu được tiếng Tây bồi này. Tiếng bồi này thời đó là
oai vì làm việc cho Tây và nói Tây hiểu, dần dần lan ra dân chúng, trở nên ngôn
ngữ mới. Hầu như là những từ không có ở Việt Nam, như xăng, cồn, tút, đề…. và
các món ăn của Pháp như bơ, phô-ma, biscuit… Riêng sữa có từ ở Việt Nam, nên
không vay mượn từ của Pháp kiểu đó. Sự biến từ những từ đa âm thành từ đơn âm
là cách Việt hóa các từ Pháp. Người bồi bếp đã đọc chữ cuối feu thành phở. Từ
đó có từ phở.
Phở là món ăn của Bắc Kỳ (theo từ
điển của Pháp sau này họ dịch là soupe tonkinoise-súp Bắc Kỳ). Điều này khẳng
định phở xuất hiện ở miền Bắc.
Người Tàu không có món phở, không
có chữ phở. Ở nước ngoài, quán ăn nào của người Tàu có món phở, họ có ghi bằng
tiếng Việt: phở bò Việt Nam (Vietnamese Nalle phở noodle soup with sliced rare
beef and well done beef brisket).
Trong khi người Tàu thừa nhận phở
là đặc sản của Việt Nam, thì một vài người Việt lại loay hoay chứng minh chữ phở
là của gốc tiếng Tàu, và món phở từ món ngưu lục phấn của Tàu (mì trâu). Món
phở xuất phát từ món súp bò của Pháp. Phở là sự kết hợp thông minh sáng tạo từ
món súp bò Pháp với nguyên liệu cổ truyền của Việt Nam. Từ điển do người Pháp
soạn cũng ghi phở: món súp Bắc Kỳ. Spagetti của Ý là do Marco Polo mang mỳ từ
Tàu về. Sự sáng tạo thông minh của người đầu bếp Ý đã biến món mỳ Tàu thành món
spagetti nổi tiếng thế giới. Sushi Nhật bản là từ cơm nắm - món ăn dân dã của
nhiều nước châu Á. Không ai nói Spagetti, Sushi của Tầu… Trong khi đó thật đáng
buồn, cuốn từ điển Việt-Pháp do Lê Khả Kế và Nguyễn Lân biên soạn, tái bản lần
thứ 4, bên trong đề có chỉnh sửa, do nxb Khoa học Xã hội in năm 1997, dịch Phở
là soupe chinoise (súp Tàu). Một cuốn từ điển cũng để chứng minh văn hóa dân
tộc. Phở là một đặc sản của Việt Nam, vậy mà dịch sang tiếng Pháp là súp Tàu.
Nếu người Tàu lấy đó làm bằng chứng phở là đặc sản của họ thì lúc đó ban biên
tập nxb Khoa học Xã hội cùng hai tác giả nói gì để tranh cãi. Từ điển là tài liệu
sống. Một sự sơ xuất vô tình có khi mất nước. “Bút sa gà chết”. Sự phân chia
biên giới Tàu-Việt đã là bài học đau đớn cho sự yếu về quân sự và thiếu tư liệu
văn hóa cổ. Một thời kỳ ngớ ngẩn theo Tàu, đã đốt những sách, tư liệu “có hơi
chữ Tây” trong đó. Giờ chúng ta lại phải cử người qua Pháp để tìm lại. Ẩm thực
cũng là văn hóa của một dân tộc. Khi tranh cãi chủ quyền về văn hóa, về đất
đai, người ta luôn đem sách vở, văn chương làm bằng chứng. Để bảo vệ giữ gìn
văn hóa cũng như giữ gìn bảo vệ đất nước, những người cầm bút phải có trách
nhiệm rất lớn và việc đầu tư cho văn hóa là cần thiết và quan trọng. Văn hóa là
một lĩnh vực rộng lớn bao hàm cả mọi vấn đề xã hội. Muốn giữ gìn văn hóa trước
hết phải quan tâm đến người làm văn hóa và có những chính sách tài trợ thích
đáng để họ bỏ công bỏ sức đi sưu tầm tài liệu.
Phở chính là sự sáng tạo tuyệt vời
của những đầu bếp Việt Nam thời đó. Họ đã thả hồn Việt vào trong phở. Giao lưu
văn hóa có nhiều cái lợi. Nếu tài giỏi thông minh biết kết hợp cái cổ truyền và
cái mới sẽ tạo ra những tuyệt tác mang phong cách và hồn dân tộc. Bắt chước
sáng tạo ra cái mới đòi hỏi tài nghệ và thông minh của người sáng tạo. Phở là
một vinh danh trong văn hóa ẩm thực Việt trong quá trình giao lưu với văn hóa
ẩm thực phương Tây.
(Paris, 07-11-2013)
* Tác giả lầm, hoặc đánh máy sai: Nguyễn Công Hoan sinh năm 1903, năm 1913 mới 10 tuổi (ghi chú của DĐTK).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét