Nhạc
sĩ Lê
Dinh
Về âm nhạc, từ 38 năm nay, thành thật và công bình mà nói, chúng ta có
thấy sự tiến triển nào trong bộ môn này không, hay là một sự tụt lùi tệ
hại từ năm 1975 đến nay, hay nói một cách khác, CSVN đã giết chết âm nhạc
Việt Nam.
Nhìn lại ngày khởi đầu của nền âm nhạc Việt Nam, từ những ca khúc đầu tiên
mà những bậc tiên liệt của nền âm nhạc để lại – được gọi là nhạc cải cách
- như Một kiếp hoa (Nguyễn văn Tuyên & Nguyễn văn Cổn), Khúc yêu đương
(Thẩm Oánh) Bình minh (Nguyễn Xuân Khoát), Bản đàn xuân (Lê Thương), Tâm
hồn anh tìm em (Dương Thiệu Tước), Bóng ai qua thềm (Văn Chung), Cùng nhau
đi Hồng Binh (Đinh Nhu), Thu trên đảo Kinh Châu (Lê Thương)…, chúng ta
thấy, dù đã ra đời hơn 80 năm nay, còn phôi thai, nhưng âm nhạc VN thuở đó
nghe rất có hồn nhạc, lời lẽ tuy không trau chuốt văn chương, nhưng không
khó nghe và lai căn như bây giờ. Chẳng hạn như bài “Thu trên đảo Kinh
Châu” của Lê Thương, một bài âm hưởng nhạc Nhật thời đó, tuy được sọan
sau, nhưng cũng được coi như là một trong những ca khúc đầu tiên của gia
tài âm nhạc Việt Nam.
Nhắc lại để chúng ta thấy rằng tuy là những ca khúc đầu tiên, khởi thủy
của nền âm nhạc Việt Nam, nhưng dù đã 83 năm qua, vẫn còn nghe được, hơn
nhạc bây giờ ở trong một nước có tên là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam. Chứng minh điều đó là gần một thế kỷ qua mà người ta còn nhớ ca khúc
“Thu trên đảo Kinh Châu” của Lê Thương.
Tiếp theo thời kỳ âm nhạc phôi thai, hay âm nhạc cải cách, đó là giai đọan
nhạc được gọi là nhạc tiền chiến mà tôi nghĩ rằng vài trăm năm sau đi nữa,
vẫn còn được nhắc nhở tới. Những tác giả như Văn Cao, Đặng Thế Phong,
Hoàng Giác, Dzoãn Mẫn, Hoàng Quý, Nguyễn văn Thương, Phan Huỳnh Điểu,
Nguyễn văn Tý, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương… đã để lại cho chúng
ta một gia sản âm nhạc đồ sộ, chỉ trong vòng có 20 năm ngắn ngủi. Nhắc lại
những bài như:
“Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc lối đào nguyên…”
Hoặc:
Suối mơ, bên rừng thu vắng
Giòng sông trôi lững lờ ngoài nắng…”
Hay:
Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thoát rơi
Trời lắng u buồn, mây hắt hiu ngừng trôi…”
Hoặc như:
“Biệt ly, nhớ nhung từ đây
Chiếc lá rơi theo heo may…”
Chúng ta nghe âm điệu sao mà du dương, uyển chuyển, tha thiết, thấm vào
lòng người. Còn lởi ca sao mà lãng mạn, yêu đương, tình tứ ngọt ngào đến
như thế.
Rồi bước qua giai đọan nhạc kháng chiến (nhạc cách mạng), một lọai nhạc
hừng hực lửa của thời toàn dân đứng lên đánh đuổi thực dân. Những tác giả
tiêu biểu cho lại nhạc hùng tráng như đánh thẳng vào lòng người này có
Phạm Duy, Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Hoàng Quý, Lê Yên, Phạm Duy Nhượng,
Phạm Đình Chương, Văn Giảng… Nhưng phải công nhận rằng Phạm Duy là người
có tác phẩm âm nhạc cổ súy tinh thần tranh đấu bài thực nhiều nhất, hay
nhất. Làm sao mà chúng ta quên được, dù 1000 năm sau, những âm điệu và lời
ca như:
Ngày bao hùng binh tiến lên
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến…”
Hoặc man mác căm hờn, như:
“Chiều qua, tôi đi qua vùng chiếm đóng
Không bóng trâu cày bên đồng
Vắng tiếng heo gà trên sân
Chiều qua, gánh nước cho Vệ Quốc Quân
Nghe tiếng o nghèo kể rằng:
Quân thù về đây đốt làng…”
Rồi 1954 ập đến, chia hai nền âm nhạc, một nửa phát triển mạnh mẻ ở xứ tự
do, phóng khoáng và một nửa chôn vùi trong chốn ngục tù, sau bức màn tre.
Một số đông nhạc sĩ sáng tác ở miền Bắc ngày trước đã tìm tự do nơi miền
Nam - đất lành chim đậu - cùng chung với những nhạc sĩ sáng tác đã sống
trước đây dưới chính thể Đệ nhất Cộng Hòa, kết hợp thành một lực lượng
sáng tác mạnh nhất, vững chải nhất, nhân bản nhất và lãng mạn nhất. Thôi
thì trăm hoa đua nở.
(Hình
trên: Nhạc sĩ Văn Phụng)
Ngay từ ngày đầu di cư, chúng ta có những Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Y Vân,
Nhật Bằng, Hoàng Trọng, Đoàn Chuẩn, Huyền Linh, Phạm Đình Chương, Ngọc
Bích, Đan Thọ, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Trọng Khương, Tuấn Khanh, Hoài Linh,
Phó Quốc Thăng, Phó Quốc Lân, Canh Thân, Vũ Thành, Vũ Huyến, Hoài An,
Thanh Bình, Lê Hoàng Long, Nhật Bằng…, cùng với những nhạc sĩ miền Nam nổi
bật lúc đó, như Phạm Duy (đã có mặt ở Saigon từ 1951), Lam Phương, Trúc
Phương, Châu Kỳ, Nhật Ngân, Trần Trịnh, Anh Việt Thu, Châu Kỳ, Mạnh Phát,
Hoàng Thi Thơ, Nguyễn văn Đông, Hoàng Nguyên, Anh Việt, Phạm Mạnh Cương,
Lê Mộng Bảo, Huỳnh Anh, Trần Thiện Thanh, Duy Khánh, Khánh Băng, Minh Kỳ,
Anh Bằng, Lê Dinh… và một số nhạc sĩ trẻ của thời đó như Từ Công Phụng,
Ngô Thụy Miên, Trầm Tử Thiêng, Trường Sa, Trường Hải, Đỗ Lễ, Nguyễn Ánh 9,
Thanh Sơn, Bảo Tố, Song Ngọc, Dzũng Chinh, Hàn Châu, Mặc Thế Nhân, Hoàng
Trang, Đinh Trầm Ca, Giao Tiên, Thăng Long, Đài Phương Trang… hợp thành
một đội ngũ sáng tác dưới chính thể tự do của hai nền Cộng Hòa ờ miền Nam
từ năm 1954 cho đến năm 1975.
Dù dưới hình thức nào, với bất cứ đề tài nào, nhạc sĩ của miền Nam tự do
cũng viết nên những tác phẩm giá trị, nhất là những tình khúc và những bài
ca ngợi người chiến sĩ VNCH, còn tồn tại, vang dội cho đến ngày nay.
Nhạc
sĩ Nguyễn Hiền
Trong khi đó, miền Bắc với chính sách bịt miệng và láo khoét, cho nên nhạc
sĩ miền Bắc viết toàn những bài ca tụng bác Hồ (của họ) gàn dỡ, vô duyên,
không thể nào lọt vào tai thính giả được. Chỉ một mình nhạc sĩ Thuận Yến
thôi mà cũng có đến 26 bài ca ngợi bác Hồ. Ngoài ra còn có những Đỗ Nhuận,
Phạm Tuyên, Vân An, Trần Hoàn, Lưu Cầu,Trọng Loan, Phong Nhã, Huy Thục, Lê
Lôi, Chu Minh v.v…viêt những bài nhạc tuyên truyền, đề cao CS một cách lố
bịch. Cả Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phan Huỳnh Điểu, Đỗ Nhuận… cũng bị lôi
cuốn trong việc sáng tác lọai nhạc bưng bô này, như Văn Cao với “Ca ngợi
Hồ Chủ tịch’, Lưu Hữu Phước với “Tình bác sáng đời ta”, Phan Huỳnh Điểu
với “Nhớ ơn bác”, Đỗ Nhuận với “Bé yêu bác Hồ”… vì không viết để ca tụng,
tung hô bác thì không có gạo mà ăn. Nội cái áo của bác và đôi dép của bác
thôi mà cũng có đến 5 bài hát nói về áo và dép này. Chỉ còn thiếu cái áo
lót của bác thì chưa có nhạc mà thôi. (Dưới thời đệ Nhất Cộng Hòa - và
luôn cả thời Đệ Nhị Cộng Hòa - miền Nam VN chỉ võn vẹn có một bài hát duy
nhất ca tụng cá nhân vị nguyên thủ quốc gia mà thôi. Đó là bài Suy tôn Ngô
Tổng Thống của Ngọc Bích và Thanh Nam. Đây không phải là chú trương của
chính phủ đề ra để bắt buộc văn nghệ sĩ sáng tác ca tụng lãnh tụ, mà đó là
ý nghĩ riêng của hai tác giả, vì muốn mang ơn người đã khó khăn lắm mới
đem đến sự an cư lạc nghiệp cho gần một triệu đồng bào di cư miền Bắc,
trong đó có hai tác giả. Đây chỉ là một hành động để nói lên lòng biết ơn
thôi)
Từ 1975 là một sự tuột dốc thê thảm, nhìn thấy và nghe thấy, không cần
phải đắn đo suy nghĩ khi nói về nền âm nhạc ở nước CHXHCN Việt Nam bây
giờ. Không phải nhìn từ bên ngoài rồi chúng ta nói thánh nói tướng, muốn
nói gì thì nói, hay nói để… chống Cộng, nhưng phải nói rằng sự thật là như
vậy. Thử hỏi có ai nghe được hết một câu lời ca trong một bài nhạc nào đó
không? Có ai hiểu ca sĩ hát gì, nói gì trong bài hát đó không? Còn nhạc
thì nghe qua rồi - dù cho nghe 5 lần 7 lượt đi nữa - hỏi có ai nhớ âm điệu
ra sao không, do-ré-mi-fa-sol-la-si thế nào không? Chúng tôi không nói quá
lời đâu. Mở YouTube ra, bấm đại một bài nào đó ở VN ngày nay, quý vị sẽ
thấy ngay lời nói của chúng tôi không mảy may quá đáng. Bấm đại bài của
Cẩm Ly hát đi, thí dụ bài “Chồng xa”, chúng ta sẽ nghe lời lẻ, văn chương
quá buồn cười, trong một bài hát, nghe sao giống như lời đối thọai trong
một vở tuồng cải lương hạng bét:
“Dậy đi mua đồ nấu canh chua
Về cho ba mầy bữa cơm trưa…”
Về âm điệu, chúng tôi đố người Việt tự do ở hải ngoại nhớ một câu nhạc nào
đó, trong một bài hát A, B, C nào đó ở VN bây giờ. Tại sao không nhớ được?
Xin thưa vì đó không phải là âm điệu mà là những nốt nhạc khác nhau, bỏ
chung vào một cái túi và rút ra 5, 6, 7 hoặc 8 nốt, rồi ráp lại cho thành
một câu nhạc thôi. Trong khi đó, thử tình cờ lấy một bài nào đó của miền
Nam, trước 1975, như:
”Xuyên lá cành trăng lên lều vải
Lòng đất ấm thương tình đôi mươi…”
Hay như:
“Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn…”
Hoặc:
“Thượng đế hỡi có thấu cho VN này,
Nhiều sóng gió trôi dạt lâu dài…”
Chúng ta nghe sao mà tha thiết quá, du dương quá và dễ nhớ, dễ thuộc, dễ
thương quá, dù cho cả đời mình hay một trăm năm sau cũng khó quên được.
Và xin quý vị thử bấm vào tựa một bài hát nào đó của CHXHCNVN ngày nay
xem. Thí dụ như bài: “Xin anh đừng” (đừng cái gì mới được chứ?) Và
vô số bài nữa, như Giấc mơ không phải của anh - Anh sẽ không níu kéo - Anh
ba Khía - Ông xã bà xã - Khi cô đơn em nhớ ai - Anh sai rồi - Quen một
ngày cho vui - Em có thể làm bạn gái anh không - Đừng buông tay anh…, nếu
kể thêm, chắc chắn quý độc giả sẽ bị nhức đầu. Tựa đề của một tác phẩm âm
nhạc là như vậy đó sao? Chúng tôi nghĩ tác giả là những trẻ con, chưa biết
nói tiếng Việt hoặc là người đã trưởng thành nhưng chưa biết viết tiếng
Việt. Tựa đề của một bài hát cũng phải nghe cho được chứ? “Xin anh đừng”
rồi thôi, hết.
Về lời ca, mời quý vị nghe ca khúc “Giá như chưa từng quen”. Mới nghe qua
tên ca khúc, chúng ta liên tưởng ngay đến một bài hát khác của miền Nam
trước 1975, bài “Nếu ta đừng quen nhau”. Cùng một ý, một nội dung, nhưng
người nhạc sĩ miền Nam viết tựa là: “Nếu ta đừng quen nhau”. Bây giờ,
chúng ta hãy xem qua lời ca: Bài “Giá như chưa từng quen”:
“Giá như chưa từng quen, chưa quan tâm nhiều về nhau
Người yêu ơi, anh không thể nhớ mỗi lần cách xa…”
Còn bài “Nếu ta đừng quen nhau” có lời ca:
“Nếu ta đừng quen nhau, thì đời chưa vướng u sầu
Ngày xanh chưa nhuốm thương đau, màu hoa chưa úa phai màu…”
Chúng tôi để quý vị kết luận. Chúng tôi chỉ thấy “tội nghiệp” cho tác giả
bài “Giá như chưa từng quen” mà thôi.
Nếu quý vị muốn nghe thêm nữa, thì đây:
“Vì ngày hôm qua anh đã thấy em ôm hôn một người…
Như muốn cào xé nát tan trái tim anh…”
Đây là lời ca của bài “Đừng làm anh đau” và xin nói thêm , chỉ có việc
“anh đau” này thôi mà có tới ba bài nhạc khác nhau, của 3 tác giả khác
nhau: “Đừng làm anh đau”, “Em khóc làm anh đau” và “Mưa làm anh đau”. Đó,
âm nhạc XHCNVN là như thế đó.
Về phần ca sĩ trình bày, mà người bên đó gọi là “thể hiện”, phải nói một
cách công bằng, vì là nơi đông dân số, gần 90 triệu người, thì làm sao
không có ca sĩ hát hay. Nhưng tiếc thay, có một số đông chỉ biết la, biết
hét, hét toáng lên, khiến người nghe không biết họ hát cái gì. Và còn nữa,
họ hay uốn éo ở chữ cuối câu (fioritures), có người còn ẹo ở giữa câu,
nghe rất khó chịu. Việc điểm fioritures này – tức là láy - người viết nhạc
chỉ dùng khi nào thật cần thiết thôi. Nếu tác giả không có để thêm nốt
fioritures thì ca sĩ đừng có tự động láy, tự động uốn éo, tự động ỏng ẹo
cho nó lả lướt, như vậy là lả lướt không đúng chỗ, nghe không thể nào chịu
được. Người mình có tài hay bắt chước và bắt chước giỏi. Cái uốn éo này
xuất xứ từ nhạc Âu Mỹ, nhưng mà với lời ca tiếng ngọai quốc, và cũng tùy
thuộc chữ nào, ý nghĩa ra sao, thì nghe được, chứ cứ uốn éo tự do, uốn éo
lung tung, bất kể quân thần thì không hợp với lời Việt chút nào.
Một phần việc ca sĩ VN trong nước bây giờ hát khó nghe, lý do cũng tại
cách viết lời ca của đa số những nhạc sĩ “lớp ba trường làng”, “trẻ tuổi
tài cao” của thời XHCN này: chỗ nốt cao thỉ để chữ dấu huyền hay dấu hỏi,
còn chỗ nốt thấp thì để chữ dấu sắc, hay dấu ngã. Viết lời ca như thế thì
chỉ có giết ca sĩ mà thôi, bởi ca sĩ không thể nào truyền đạt cho thính
giả hiểu được mình hát cái gì. Hát mà người nghe không hiểu gì thì hát làm
chi?
38 năm, một thời gian đủ để những “đỉnh cao trí tuệ” giết chết tất cả, từ
chữ nghĩa văn chương cho đến âm nhạc. Riêng về âm nhạc, họ đã vùi dập bao
nhiêu công lao của những người đi trước, trải qua bao thế hệ, từ thời kỳ
âm nhạc cải cách, đến nhạc mới hay tân nhạc, rồi nhạc vàng (chữ của họ gọi
để ám chỉ nhạc miền Nam từ 1954 đến 1975 mà họ đã cố tiêu diệt nhưng không
được) và nay là nhạc của thời XHCN, của thời:
“Dậy đi mua đồ nấu canh chua
Về cho ba mầy bữa cơm trưa”.
LÊ DINH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét