Hầu hết du
khách có ấn tượng tốt đẹp về
Nhật. Có thể khi du lịch không bận bịu trăm
thứ chuyện hằng ngày, khung cảnh và con
người hoàn toàn khác nên du khách có cái nhìn dễ dãi,
rộng lượng. Trong tinh thần ấy, những ghi
chép sau đây chỉ là cái nhìn của người
cưỡi ngựa xem hoa. Và giữa những điều
nhìn thấy, chúng tôi không khỏi thắc mắc làm sao
một nước Nhật kỹ thuật tân tiến
dường ấy lại vẫn giữ được
một cách tuyệt vời những tập tục ngàn
xưa, hai thứ đối chọi mà hài hoà quyện vào nhau
nhịp nhàng độc đáo. Khác với bất kỳ
một dân tộc nào, người Nhật tự tôn mà kín
đáo, ít lời mà nhiều ý, nhún nhường mà kiêu hãnh.
Thái độ kính trọng người khác làm tăng
sự kính trọng chính họ, cách gập người chào
là hình thái của một dân tộc hết sức tự
tin. Chưa hề thấy một chủng dân nào khả ái
dường ấy dù đã từng là quân phiệt.
Dân Nhật chấp
nhận cái mới và khác của người rồi nhào
nhuyễn thành cái của riêng mình, cùng lúc vẫn bảo
tồn cái căn bản riêng rất Nhật. Ví dụ về
chữ viết, các nhà ngôn ngữ học cho là tiếng Nhật do nhiều nguồn
gốc khác nhau tạo thành, đặc biệt từ
nguồn Thổ Nhĩ Kỳ và Mông Cổ.
Có 4 cách
viết : Kanji dùng chữ Hán(du nhập từ thế kỷ
thứ IV); Hiragana là Kanji giản thể (phát minh
giữa thế kỷ thứ IX khi liên lạc ngoại giao
giữa Hoa -Nhật bị cắt đứt),
được xem là chữ của đàn bà vì hình thức uyển
chuyểnlịch sự; Katakana viết góc cạnh
thường dùng cho con số hoặc chữ gốc
ngoại quốc, nó không được vào hàng chữ
viết nghệ thuật thư pháp nhưng góp phần vào
cách viết tiếng Nhật hiện đại; Romanji hay
Rômaji được phát minh do ảnh hưởng
tiếng Anh, thường dùng cho các mẫu tự trong
tự điển hoặc viết sách điện tử,
chỉ dẫn du khách … Tất cả đã góp phần
cho tiếng Nhật phong phú và độc đáo.
Có người nói vì
đời sống Nhật luôn bị gò bó lễ nghi con
người bị dồn nén, khi bung ra thì rất dữ
dằn bắn giết vợ con, đồng nghiệp, vân
vân. Nhưng các nước tự do như Mỹ tha hồ
dùng súng, hay Pháp, Anh, Úc… cũng đầy rẫy những
vụ giết người hàng loạt vì ác tánh hay chỉ
vì muốn được nhắc đến tên mình.
Vậy thì dù bị gò ép hay không, khắp nơi đều
có cái ác. Dân Nhật hơn hẳn mọi dân khác là giữ
được nền nếp kỹ cương và lòng
tự trọng, nhân viên dưới quyền phạm
lỗi là cấp trên tự động từ chức, ngay
cả tự sát…
Trân trọng
giới thiệu những điều nhìn thấy.
1. Phong cách Nhật Bản :
Chúng tôi hăm
hở bước lên chiếc 767 Japan Air Lines đã thấy
ở cửa máy bay một ông gập người chào
mỗi hành khách bước tới. Vào trong các cô tiếp
viên thi nhau gập chào, miệng tươi như hoa. Tuy
không xinh đẹp duyên dáng như các cô E nhà mình, nhưng
nụ cười họ nồng nàn, ánh mắt ân cần,
cử chỉ trân trọng…, «cái nết đánh chết cái
đẹp» thật là thấm thía.
Suốt ba tuần
trên đất Nhật quen với nụ cười
niềm nỡ và cái cúi đầu, chúng tôi cũng cúi chào –
không những chỉ đáp lại lễ nghi của
mỗi cá nhân mà còn chào thán phục nền văn hoá uy nghi
vững chãi của dân tộc họ, nó ăn sâu và thể
hiện khắp mọi nơi, mọi hoàn cảnh trong
đời sống hằng ngày Nhật Bản.
Ở tiệm ăn dù cái đuôi dài ngoài cửa, họ vẫn không nhét
khách vào bàn chỉ có một người, không đuổi
khéo bằng cách dẹp vội vàng chén bát. Tiệm ăn
Nhật có ghế dành cho khách chờ, chưa
được mời khách cũng không tự động
vào sục sạo tìm bàn. Tuyệt đối không một
cộng rau mẩu giấy dưới đất. Ăn
cơm Nhật vớiđôi đũa ngắn mà gắp cả nền
văn minh của họ. Không được cắm
đũa vào chén cơm, cũng không chuyển thức
ăn từ đũa mình trực tiếp qua đũa
người khác, vì đây là những hình thức dành cho tang
lễ. Đũa dùng riêng cho mỗi người không
gắp thức ăn chung. Thông thường mỗi
người một khay riêng biệt. Chiếc đĩa
trên cùng của chồng đĩa trên bàn luôn luôn có
đậy tờ giấy che bụi.
Trên tàu lửa hay xe ca, nhân viên bán quà vặt hay soát vé ngừng ở cửa
cúi chào mỗi khi ra-vào toa. Họ xin phép soát vé, găng tay
trắng tinh, trả lại cám ơn cúi chào… từng ấy
cử chỉ cho mỗi khách. Xong đi lui đến
cửa, gập người chào lần nữa mới
đi luôn. Nam hai tay duỗi thẳng áp phía trước
hoặc hai bên đùi, nữ hai tay áp trước bụng,
đầu ngón hướng về nhau. Các cử chỉ này
thật cảm động dù không ai lưu ý, trừ vài
khách lạ tò mò. Họ hành xử tự nhiên hầu như
máy móc mà nét mặt nhu nhã nghiêm trang, thực hành cho mình, cho
nhiệm vụ mình với lòng tự trọng.
An ninh chẳng
biết có tuyệt đối không, nhưng thật
tuyệt vời. Không thấy nhân viên công lực bởi
chính mỗi người dân là một cảnh sát cộng tác
âm thầm mà hiệu nghiệm, không phải chỉ
điểm phá hại nhau, mà là để gìn giữ một
nước Nhật an ninh, văn minh và cường
thịnh. Tàu điện ngầm Tokyo vào giờ đi làm buổi
sáng, có toa dành riêng cho quý bà. Một thanh niên du học Harvard
về, mới hơn ba mươi tuổi đã
được chân giáo sư đại học, viết
sách viết báo, truyền hình truyền thanh phỏng vấn
liên miên, là gương mặt đang trên đỉnh vinh
quang cả nước Nhật chiêm ngưỡng và các cô
mơ thầm. Đùng một cái anh bị hành khách tàu
điện ngầm giải đến cảnh sát :
về tội đã dùng kính hai lòng nhìn dưới váy các cô
đứng bực trên trong thang cuốn. Từ đó
mọi thứ tiêu tan. Thầy giáo tiếp sinh viên phải
để cửa mở toang. Mấy năm trước có
ít sinh viên châu Á sang Nhật, xe đạp không cần
phải khóa, rớt cái ôba ngày có thể tìm thấy. Đi
về trong đêm không cảm thấy e ngại, bóp xách
cứ tung tăng thoải mái. Đây cũng là xứ
sở biết quan tâm người khuyết tật, mọi
ngã tư đèn xanh-đỏ đều có tiếng chim kêu
báo hiệu người mù biết nên đi hay dừng. Ngã
sáu-bảy có lúc tất cả mọi hướng xe
đều phải ngừng cho khách bộ hành, các nơi này
có lối băng xéo chữ X từ góc đường
nọ qua góc đường kia. Băng qua đường
mà họ cũng tôn trọng lệ ai tới trước
đứng trước, tuyệt đối không chen
lấn, không xen vào hàng trên dù chỗ đứng cách xa nhau
rộng rãi.
Vệ sinh thì,
trong khi Việt Nam bắt đầu chiến dịch
«Phải nói không với xả rác và phóng uế ngoài
đường», Pháp trở lại phong trào dạy trẻ
nhặt giấy rơi ngoài phố và Singapore dầu nổi
tiếng sạch sẽ vẫn phải cần đến
hình phạt - thì Nhật Bản từ thuở nào đã
sạch sẽ như lau. Mỗi người tự
phạt chính mình, tự khép vào kỷ luật. Làm sao thành
phố Tokyo đông đảo nhộn nhịp dường
ấy, bất kỳ trạm tàu điện và phố
phường nào cũng nườm nượp
người tất bật mà chỉ khi đến Shibuya
dạo phố đêm - một khu ngập người,
nhiều ngoại quốc, khu ăn chơi với 8000
tiệm rượu một cây số vuông, nhiều con
đường nhỏ rào rào tiếng chơi game
người lớn, tiệm tùng ăn uống miên man…, mà
chỉ thấy vài đầu thuốc lá trên
đường, và chắc chắn của du khách lơ
đãng. Người Nhật có thói quen tự giữ rác
của mình. Dân hút thuốc luôn luôn có cái hộp gạt tàn nhỏ
trong túi. Vừa ra khỏi tàu điện ngầm là khách nhào
đến bỏ từng loại rác vào thùng ghi bên ngoài sách
báo, chai lọ... Chỗ nào không có thùng rác thì rác riêng cứ nằm
trong túi. Rác nhà được bọc trong bao ni lông nghiêm
chỉnh, không một chút rơi vãi hay cột bao hời
hợt, gom tại khu dành riêng che lưới bên trên
để quạ khỏi mổ. Một đất
nước như vậy, chẳng du khách nào dám bừa bãi.
(Tại trạm tàu điện ngầm Shibuya này, giữa
rừng người mênh mông tất bật, tượng
đá con chó Hachikô an nhiên ngồi làm điểm đánh
dấu cho những cuộc hẹn hò. Chuyện là xưa kia
Hachikô ngày ngày đưa ông chủ đến ga này đi
làm, chiều về nó đã chờ đón sẵn ở ga.
Luôn luôn đúng giờ. Đến khi chủ mất đi,
nó vẫn tiếp tục lộ trình ấy một mình, cho
đến ngày theo hầu chủ bên kia thế giới.
Đúng giờ tượng trưng cho chữ tín,
người Nhật đúc tượng nó đặt tên
Nghĩa Khuyển).
Và không như các
hồ tắm cộng cộng ở nhiều nơi
người ta chỉ xối nước qua quýt rồi
nhảy xuống hồ. Bên Nhật để bước
vào O furo, người ta đã tắm ở dãy phòng bên
cạnh sạch sẽ, vào hồ chỉ để nằm
thư dãn, che người bằng khăn trắng tinh
được cung cấp. Tuyệt đối nước
không ngưng đọng, không một gợn vết, dù chung
đụng nhưng cực kỳ vệ sinh.
Trong tiệm ăn
hay khách sạn không bao giờ được cho tiền
«bo». Khách sạn truyền thống có phòng chung cho gia đình
và phòng ăn riêng cho mỗi gia đình.Điểm
rất ngộ không biết dân Tây có chịu nổi không, là
nhân viên vừa gõ cửa, khách trọ chưa kịp trả
lời là họ đã đẩy cửa vào phòng ngay, không chờ
trả lời. Từ phòng bước ra là giày của khách
hoặc dép khách sạn đã sắp lại ngay ngắn,
mũi hướng ra ngoài. Đi chơi về, cứ
như có Giáng Hương từ trong tranh bước rasăn sóc, cơm nước đã
sẵn, mỗi gia đình với phòng ăn riêng và một
cô phục vụ. Cô di chuyển trên hai gót nhẹ nhàng
gọn ghẽ, phục vụ với cả hai tay và cái cúi
đầu, chuyện trò vui tươi lễ phép.
Đề nghị chụp hình, cô vui lòng ngay nhưng không
chịu là người phụ nữ duy nhất trong
ảnh với quý ông, e mang tiếng.
2. Sinh hoạt Nhật Bản :
Xe chạy bên trái.
Tàu lửa, tàu điện ngầm hầu như lúc nào
cũng đông người, đọc sách báo, ngủ
đứng ngủ ngồi, nhưng đến trạm
phải xuống là họ tự động thức
dậy. Hoạ hoằn lắm mới có người nói
điện thoại nhưng ghìm nhỏ giọng. Giới
trẻ nếu cô cậu nào không ngủ thì chơi game
hoặc âm thầm trao đổi lời nhắn trên di
động, khúc khích một mình. Khi trò chuyện hỏi han
thì nét mặt họ tươi sáng hẳn ra, chỉ
dẫn tận tình. Gặp con nít trong thang máy, nó giữ
cửa mời người lớn ra trước.
Trạm tàu
điện ngầm và đường nào cũng có toa lét
sáng bóng sạch sẽ cực kỳ. Chẳng mấy khi
gặp người quét dọn mà lạ, vẫn tinh
tươm ngăn nắp. Máy bán nước tự
động đặt khắp nơi cả những đường
rất vắng mà vẫn bình an.
Không đi theo tua
hoặc không biết tiếng Nhật thì cũng khó xoay
sở vì hầu hết đều ghi tiếng Nhật,
một ít nơi ở Tokyo mới chua thêm tiếng Anh. Dù chẳng
bập bẹ tiếng bản xứ và người bán
trừ ở các cửa hàng du khách, chẳng ai nói tiếng
Anh, nhưng vì họ không thách để được
hời nên giá ghi bao nhiêu khách cứ nhắm mắt rút
tiền trả bấy nhiêu. Ngay cả ở chợ, tờ
bạc nào cũng tinh tươm thẳng thớm,
đưa hai tay và thối lại cũng hai tay. Và hàng cá
cũng tinh khôi sạch sẽ như hàng bánh kẹo, không
chút nước rơi vãi dưới đất, không
nặng mùi chợ búa. Đời sống cao, mắc
mỏ, nhưng đồng lương đảm bảo
được cho người dân nếp sống
lương thiện.
Đại Học
Như hầu
hết các nước tiên tiến, Đại học
Nhật không phải là «học đại» và không cần
quảng cáo «tiêu chuẩn quốc tế» mà lại vang danh
quốc tế. Như Đại học Tokyo thành lập
năm 1877 thời Minh Trị Thiên Hoàng, từ 1946
đến 1993 đã cung cấp cho đất
nước 6 Thủ tướng ; và đoạt 4 Nobel
từ 1968 đến 2002 ((hai nhà vật lý năm 1973 và
2002 ; hai nhà văn là Yasunari Kawabata (1899-1972, giải
năm 1968) với Kenzaburo Oe (sinh 1935- giải năm 1994)).
Vợ thái tử Naruhito, cô Masako Owada sinh năm 1963, tốt
nghiệp đại học Harvard và nói lưu loát 6 thứ
tiếng, đã học nơi đây. Masako là con một nhà
ngoại giao, kết hôn với Thái tử Naruhito hồi
tháng 6-1993, thường bị trầm cảm vì áp lực
hoàng gia. Sau 8 năm lên xe hoa và nhiều lần sẩy thai,
cuối cùng cô sinh được một công chuá năm 2001.
Luật lệ «không chấp nhận phụ nữ lên ngôi»
dự tính được xét lại, nhưng năm 2006
vợ hoàng tử Akishino sinh hạ một hoàng nam nên
việc xét lại bị hủy bỏ. Dầu vậy theo
luật cải tổ năm 1947 thì «hạn chế việc
truyền ngôi cho hậu duệ các chi phái phụ», và nền
quân chủ Nhật cũng chịu áp lực của dư
luận là phần lớn dân chúng muốn canh tân hoá,
chấp nhận dễ dàng một công chúa lên ngôi – nên trong
tương lai có thể việc xét lại luật sẽ
được đặt ra.
Đại học
Tokyo dù bên trong là những dãy cao tầng hiện đại,
nhưng để vào đó phải bước qua chiếc
cổng mái cong màu đỏ, rất cổ kính. Cái cổng đỏ (Akamon) này do dòng
họ lãnh chúa Maeda đã dựng nên vào năm 1827 để
đón một quận chúa nhà Tướng Quân Tokugawa về làm dâu và thuở đó khuôn viên đại học hãy còn là khu phủ đệ của họ.Chung quanh
cổ thụ bao bọc, trong sân trường có
tượng các vị giáo sư ngoại quốc
đầu tiên đã đến đây truyền bá kiến
thức cho sinh viên. Nằm giữa phố xá Tokyo mà ngôi
trường vẫn mang nét huyền bí riêng biệt, như
bước khỏi chiếc cổng đỏ là
bước vào một thế giới khác, cao xa lạ
lẫm, như cô con gái bước qua một cuộc
đời khác. Đặc biệt trường có bộ
phận lưu trữ báo chí cho toàn nước Nhậtrất phong phú mà các nhà nghiên cứu nào cũng phải đến
tham khảo nếu cần.
Kiến trúc
Ở Kyoto có rất nhiều công
trình và vườn được bảo vệ với danh
nghĩa tài sản văn hoá quốc gia hay địa
phương. Không một nơi nào trên đất Phù Tang
được số lượng và phẩm như
vậy. Những nơi được Unesco xếp vào danh
sách Tài sản của nhân loại thường nằm vào
thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 19, chúng
được chọn không phải chỉ do công trình
kiến trúc sáng tạo vào thời ra đời, mà còn do nó
mang tầm quan trọng lịch sử của vùng Kyoto
nữa. Phần lớn các công trình kiến trúc của
Nhật là bằng gỗ, và rất nhiều đã bị
thiêu hủy vì chiến tranh hay hoả hoạn. Như chùa
Kiyomizu nằm chênh vênh trên lưng chừng núi, bằng
gỗ, từ thế kỷ thứ 8 và kiến trúc lại
thế kỷ 17, là một biểu tượng đặc
biệt của Kyoto. Chẳng hiểu sao bao nhiêu trận
động đất chùa vẫn bình an, những thân
gỗ kiên cố đỡ chùa nhô ra khỏi bờ núi
đá tạo nên một thế chênh vênh lạ lùng
đặc biệt. Người Nhật có cách nói «gieo mình
từ Kiyomizu», diễn tả nếu còn sống thì
ước nguyện gì cũng sẽ thành sự thực.
Trong lòng thành phố chỉ còn lại rất ít công trình thế
kỷ 16, lặng lẽ chìm lẫn mà cao sang giữa
kiến trúc tân thời hiện đại. Kyoto là nơi
nhiều chùa chiền nhất nước Nhật,
khoảng 1600 cái, rộng rãi, bề thế như
người đang «xuống tấn».Khác
ta là nhiều cái hư hỏng được trùng tu,
nhưng… không một người Nhật nào kêu gào về
việc trùng tu. Ở đây cũng chẳng mấy khi
gặp sư sãi, nhưng tuyệt đối không có con buôn
chèo kéo, không một ai níu khách xin tiền. Giữa lòng thành
phố ngược xuôi xe cộ, khách thập phương
bước vào khuôn viên chùa đã thấy ngay lòng thanh
tịnh, trang nghiêm.
Cũng khác ta là quạ
bên Nhật không mang nghĩa xui xẻo, nó là biểu
tượng của đội tuyển bóng đá quốc
gia ; Cú, vì cách phát âm fukuro, mang vần gần chữ phúc
nên cũng được ưu ái ; Chồn, ta xem là tinh
quái khó lường, nhưng bên Nhật nó tượng
trưng lúa gạo của cải. (Lịch sử văn
học Nhật / Nguyễn Nam Trân).
X
Anh đào và Phú Sĩ :
Thật ra tiếng
Nhật gọi hoa này là Anh, không có chữ đào. Có lẽ
người mình thấy loại màu hồng nên gọi
như vậy, nghe cũng du dương thơ mộng
hơn. Anh đào và Phú Sĩ là hai biểu tượng
đặc thù và là niềm tự hào dân tộc của
Nhật.
Một ngọn núi
trường cửu cao 3776 mét lừng lững uy nghi quanh
năm tuyết phủ, một loại hoa mỏng manh
chỉ sống rộn ràng mỗi năm vài tuần mà
lại cùng đứng ngang nhau đại diện một
quốc gia. Mâu thuẫn vậy mà hài hoà một cách
độc đáo, như nền văn minh kỹ thuật
và lễ nghi cổ kính luôn luôn song hành với nhau
đặt Nhật Bản lên vị thế không một
nước nào có trên thế giới.
Ai cũng biết
nên đến xứ Phù Tang vào đầu tháng tư, khi anh
đào nở rộ khắp nơi. Cũng có loại
đào Đài Loan hoặc ở Okinawa nở từ tháng giêng,
và có loại dọc bờ sông nở từ tháng hai,
nhưng chỉ đến tháng tư thì toàn thể
đất Nhật là một rừng hoa. Có thể ví von
như phó mát Pháp : mỗi ngày một loại. Nhiều
nơi con sông nằm giữa hai dãy phố đào-liễu
mọc hai bờ, thơ mộng hiền hoà như Bruges bên
Bỉ (được mệnh danh là Venise phía Bắc). Sông
giữa phố mà chẳng có miếng giấy trôi hay
bịch ny lông bềnh bồng. Cảnh đẹp như
tranh thì có thể tìm thấy khắp nơi.
Đào tượng
trưng cho nhan sắc phù du, vì vậy nó gắn liền
với Samurai, một cuộc đời đẹp mà
ngắn ngủi. Đào phảng phất khắp nơi
trong đời sống người Nhật, trong
văn chương kịch nghệ, hội hoạ và âm
nhạc. Bài hát Sakura (Anh đào), là một bài hát rất
phổ thông. Đào đi vào đạo Phật và Thần
đạo. Người Nhật dùng hình ảnh nó
để động viên dân chúng, khuyến khích tin rằng
linh hồn lính chết trận sẽ hoá thân thành hoa đào.
Trong thế chiến thứ hai, quân nhân thường vẽ
hoa đào lên sườn máy bay mỗi lần thực
hiện chuyến bay cảm tử. Cả đến ngày
nay trong quân đội hay cảnh sát, trên lá cờ và huy
hiệu, thay vào chỗ gắn ngôi sao thường lệ là
cánh hoa đào.
Người
Nhật thích gắn đời mình vào các mùa trong năm, thói
quen này có gốc nguồn trong đạo hoàn toàn khác với
các tín ngưỡng thờ một thần duy nhất.
Ở đây tôn giáo mang nghĩa thẩm mỹ và hài hoà
hơn là giới luật. Họ cho điều quan
trọng là dù trong lãnh vực tôn giáo hay không, phải làm
những việc thông thường với óc mỹ
thuật và vào thời điểm chính xác suốt năm hay
suốt cả đời người. Khi người
Nhật theo bước chân bốn mùa, họ cảm
thấy mình là một phần của Vũ trụ, và Thiên
nhiên cưu mang họ. Điều này trấn an họ sâu
xa, trong khi các giáo điều và giao ước với thánh
thần không quan trọng lắm.
Với quan niệm
đó, mở đầu chương trình truyền thông, sau
khi cúi chào thật thấp đầu đụng xuống
bàn, xướng ngôn viên thường nói Sáng nay trời lạnh… Chúng ta bước vào mùa thu…
Hôm qua trời mưa để lại các vũng
nước nhỏ… Hoa đào sẽ nở vào ngày… Đến
ngày đó thì khắp các công viên, các bờ sông có đào
lễ hội Hanami bắt đầu. Người
nườm nượp. Đây là lễ hội hoa đào,
là dịp bạn bè ngồi với nhau, saké và bia không
thể thiếu, náo nhiệt nhưng không ồn ào. Không
một cộng rác phiêu lưu khỏi lô thùng chứa
đặt khắp nơi cho những ngày đặc
biệt. Lễ hội này kéo dài khoảng hai tuần
suốt thời gian hoa nở. Nhưng trên áo kimono, sản
phẩm bằng giấy, chén điã… thì hoa đào nở
quanh năm và suốt đời. Sakura cũng là tên con gái
rất thông dụng. Ngoài một số thực phẩm dùng
hoa đào, còn có loại trà hoa đào rất đặc
biệt là ướp muối thật mặn, chỉ dùng
dịp cưới hỏi. Những điều này
đủ thấy hoa đào đối với dân Nhật
mang ý nghĩa tâm linh quan trọng thế nào.
Năm 1912 Nhật
đã tặng Mỹ 3000 gốc anh đào để thắt chặt tình hữu
nghị đang nở hoa, và năm 1956 tặng thêm 3800 cây
nữa. Thích đào Nhật mà đang ở Mỹ thì
chờ mùa hoa nở đến Washington DC, hồ Tidal Basin.
Vậy mà dân thủ đô ta đã nỡ lòng «hái lộc»
sạch trong lễ hội năm năm 2008 khi cây anh đào
vừa chào Việt Nam, năm 2009 chỉ có 6 cây, đã
phải huy động 500 người canh gác với
bảng nhắc nhở phải thương hoa ! Ôi, ta
khác họ biết nhường nào, vậy mà họ vẫn
tiếp tục biếu anh đào cho ta, đủ hiểu
đây là một dân tộc can đảm cực kỳ!
Phú Sĩ
nằm ở miền trung, là điểm cao nhất cả
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của nước
Nhật. Sau lần phun lửa cuối cùng vào năm 1707, nó
được xem là vẫn còn hoạt động mặc
dầu yếu đi.
Hoạ sĩ KatushikaHokusai
(1760-1849) với hoạ phẩm «36 góc nhìn của Phú
Sĩ» theo bốn mùa, đã ảnh hưởng rất
nhiều cho trường phái ấn tượng Tây
phương, như Vincent van Gogh (1853-1980), Édouard Manet
(1832-1883), Edgar Dégas (1834-1917) và Claude Monet (1840-1926)… Nếu
trời quang mây tạnh, từ Tokyo có thể nhìn thấy
đỉnh ngọn núi huy hoàng này. Hình thể nó đều
đặn ít thấy ở ngọn núi nào, hai sườn
thoai thoải trải dài trên 30km, đỉnh quanh năm
tuyết phủ có đài khí tượng, rất thường
có gió. Và mặc dù thời tiết khắc nghiệt, Phú
Sĩ là một điểm hẹn rất thịnh hành
của dân Nhật. Người ta lên đó qua đêm lạnh
buốt để sáng hôm sau ngắm cảnh thái
dương ửng đỏ ở chân trời. Nó uy nghi
thả ánh mắt xuống 5 hồ nằm gần
đấy, nơi mỗi sáng mỗi chiều khách bộ
hành thơ thẩn bên bờ và ca nô hay du thuyền thong dong
ngắm cảnh.
Hạc
cũng là biểu tượng độc đáo của
Nhật.
8 giờ 10 phút sáng ngày 6-8-1945
Hiroshima vẫn còn nguyên vẹn, bắt đầu sinh
hoạt. 8 giờ 15 đã tan tác tro bụi. Toàn thể
Hiroshima chỉ còn trơ lại bộ sườn vài cơ
sở, đặc biệt là Vòm Genbaku (dome de Genbaku) cũng
còn gọi là Vòm Bom Nguyên Tử mà đã một thời
người Nhật bàn cãi nên phá đi hay giữ lại.
Phá đi vì đó là dấu vết xấu xa của
chiến tranh, giữ lại vì kỷ niệm. Và kỷ
niệm đã thắng. Năm 1995 đã được
xếp vào hàng di tích lịch sử để rồi năm
tiếp theo được nằm trên danh sách di sản
thế giới của Unesco mang tên chính thức là «Mémorial de
la paix d’Hiroshima».
Nhưng Hiroshima không
ngừng lại ở chỗ hoang liêu tang tóc mà cố
vươn lên. Khởi công từ những năm 1950
đến 2003, khu công viên thênh thang 12 hécta này, ngoài
viện bảo tàng trưng bày hình ảnh Hiroshima điêu tàn
sau 8 giờ 15 sáng ngày 6-8-1945 và hoạt cảnh người
bị chảy mỡ bằng sáp, còn có phần mộ không
xác làm theo kiểu mẫu nhà xưa bằng đất sét
của người Nhật, là nơi che mưa gió cho toàn
thể linh hồn những người đã ra đi trong
ngày đau buồn ấy. Và cách đó không xa, Ngọn
lửa Hoà bình sẽ không tắt vì đã được ghi
chú là nó sẽ cháy mãi khi mà bom nguyên tử vẫn còn
được chế tạo. Mỗi lần nước
nào trên thế giới có cuộc thử bom nguyên tử là
thị trưởng Hiroshima đều viết thư chính
thức phản đối. Và lá thư được dán trong
viện bảo tàng Memorial Museum.
Ra khỏi viện bảo tàng, vươn lên trời
xanh tượng một bé gái dang tay tung con chim hạc
bằng vàng, bên dưới ghi «Đây là tiếng kêu
của chúng tôi. Đây
là lời cầu nguyện của chúng tôi. Để xây
dựng hoà bình trong thế giới». Đó là câu chuyện bé Sadako
Sasaki, hai tuổi lúc Hiroshima bị dội bom. Năm 11
tuổi bịnh nặng, Sadako nghe lời bạn cố
thắt đủ ngàn con hạc vì theo truyền thuyết
sẽ giúp ước mơ thành sự thực.
Được 644 con thì em chết. Bạn bè thắt thêm,
đặt vào quan tài em ngàn cánh hạc. Hạc đối
với dân Nhật rất quan trọng, nó là biểu
tượng của sự trường sinh, nên hình ảnh
những con hạc nhỏ đã nhanh chóng đi vào
truyền thống, mỗi lần có người thân đau
nặng thiên hạ lại thắt ngàn con hạc. Nó cũng
trở thành biểu tượng của thế giới ao
ước hoà bình. Và mãi đến giờ, hằng năm
học sinh khắp thế giới vẫn thắt hạc
đủ màu gửi đến công viên Hiroshima.
Và tại sao Hiroshima
mà là không nơi nào khác? Trên danh sách làm thí điểm
đầu tiên ném bom nguyên tử có Kyoto, Hiroshima, Yokohama, Kokura,
và Niigata. Nhưng Kyoto thoát được nhờ nhiều
nhà cố vấn phản đối, nhất là nhà đông
phương học người Pháp Serge Elisseeff (1889-1975)
biết rõ kho tàng văn hoá của thành phố này, một
báu vật của văn minh nhân loại. Lý do nữa là vì
Hiroshima không có tù binh đồng minh. Phim Mưa Đen
của Shohei Imamura (1926-2006) lấy lịch sử Horoshima
làm bối cảnh nói lên rất nhiều nỗi đau và
nỗi nhục của một dân tộc bị nhiễm
bịnh và bại trận.
x
Rolland Barthe viết Empire des signes, Đế
quốc các dấu hiệu, cảm nhận của ông khi
viếng Nhật năm 1970. Một đất nước
diễn tả bằng lời thì ít, mà bằng dấu
hiệu thì nhiều. Như chiếc kimono, geisha thì obi thả giải dài xuống
sau lưng, sinh viên phủ váy ra ngoài, các bà không phủ váy và obi thắt nhiều kiểu
rất đẹp. Chưa chồng tay kimono dài, có chồng
tay áo ngắn hơn. Con gái tóc thả lơi, có chồng thì
búi cao… Nghệ thuật Ikebana, mỗi bình hoa nói lên
điều gì đó, diễn tả nỗi niềm hay phong
cách, ngay cả đề cập đến thiên nhiên.
Cũng hơi... rắc rối !
Hiểu
được người Nhật là điều không
dễ nhưng kính trọng người Nhật qua cách
sống thì khắp nơi trên thế giới đều
phải nghiêng mình. Văn hóa này không thể định
được thời gian mất bao nhiêu năm, cái chính là
ý thức của mỗi con người, và điều này
cần rất nhiều đến giáo dục học
đường.
Xuân Sương
Paris, avril 2009
Nguồn: Ăn mày văn chương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét