Phạm Xuân Đài
Tâm hồn tôi ngay từ khi còn bé đã được xây dựng với rất nhiều hình ảnh của đất Bắc, đặc biệt là Hà Nội, qua các sách tôi đọc. Sách Hồng, sách Truyền Bá Quốc Ngữ từ lúc vừa biết đọc, lớn lên một chút, tôi tiếp tục đọc sách Tự Lực Văn Đoàn và các tác giả khác: Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài v.v... và tiếp nhận thông tin đủ mọi mặt của đời sống đất Bắc qua văn chương. Thuở ấy sách xuất bản từ Sài Gòn mà tôi có được thì tuyệt đối chỉ là truyện Tàu của nhà Yễm Yễm Thư Trang: Tam Quốc, Tây Du, Thủy Hử... rất hấp dẫn và có ích về kiến thức lịch sử, văn hóa Tàu, nhưng tất cả những gì về văn học Việt Nam thì đều đến từ Hà Nội. Nhưng cho đến cuộc di cư của đồng bào miền Bắc năm 1954 thì tôi mới thực sự bắt đầu tiếp xúc với người Bắc.
Mùa hè năm 1954 tôi đã là một thiếu niên, vừa đủ hiểu biết để theo dõi các chuyển biến quân sự chính trị của đất nước, từ trận Điện Biên Phủ đầu tháng Năm cho đến khi ký kết hiệp định Genève vào tháng Bảy, và tiếp theo đó là cuộc di cư của đồng bào ngoài Bắc vào Nam. Bây giờ đã lớn tuổi, nhớ lại quãng thời gian ấy, tôi thấy cậu thiếu niên là tôi lúc đó hầu như đã trưởng thành hẳn trong vòng có mấy tháng với những biến cố rung động cả đất nước và con người Việt Nam.
Cuộc di cư của đồng bào miền Bắc đối với tôi bắt đầu ngay từ sau khi hiệp định đình chiến và chia đôi đất nước được ký kết tại Thụy Sĩ. Tôi rúng động khi biết sẽ mất Hà Nội, và những ngày ấy tôi thường theo dõi đài phát thanh Hà Nội --thời đó gọi là đài Hirondelle (chim Én)-- mà trước kia tôi chưa bao giờ nghe. Tôi còn nhớ buổi phát thanh cuối cùng của Tổng hội Sinh viên Hà Nội trước khi từ giã đất Bắc để vào Nam, nghe xong lòng tôi buồn như muốn khóc. Không biết trong buổi phát thanh đó có mặt các anh Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo... hay không, sau này quen biết với các anh tôi chưa bao giờ hỏi điều ấy. Nhưng buổi phát thanh ấy đã hằn trên tâm hồn mới lớn của tôi một ấn tượng lớn lao về lịch sử, về sự chia cắt và nỗi nhớ thương một Hà Nội mà từ nay trở đi sẽ không còn là Hà Nội như tôi đã biết từ trước nữa.
Bài hát Hướng Về Hà Nội của Hoàng Dương phổ biến trong mùa hè ấy đối với tôi mãi mãi là một nhạc phẩm lớn ghi lại nỗi niềm, như tôi vừa viết, nhớ thương một Hà Nội từ nay sẽ không còn như xưa nữa. Đó không phải chỉ là lời giã biệt của một chuyến đi, mà là giã biệt vĩnh viễn những thành tựu văn hóa ngàn năm cô đúc trong một đô thị đầy ắp lịch sử và các giá trị nhân văn của một dân tộc. Suốt bài hát những tiếng kêu khắc khoải Hà Nội ơi, Hà Nội ơi lặp đi lặp lại trước mỗi tiểu khúc mô tả kỷ niệm, nếp sống, vẻ đẹp của người, của cảnh... như là một cố gắng dựng lại bao cái tinh hoa của Hà Nội trước khi vĩnh viễn dứt lìa. Quả thế, kể từ đó, tất cả vẻ đẹp cổ điển của Hà Nội đã hoàn toàn bị xóa bỏ không còn bao giờ hồi phục được nữa.
Thế rồi vào một ngày cuối hè đầu thu năm ấy, thành phố Hội An nhỏ bé và cổ kính của chúng tôi bắt đầu đón tiếp người Bắc di cư. Mấy cái lều thật lớn được dựng lên trong khu vực sân quần vợt của thành phố, và một hôm đầy ắp người ở. Nhưng đó chỉ là nơi tạm trú, không lâu các gia đình ấy tản đi thế nào tôi không rõ, chỉ thấy lều trại được giở đi, và thành phố có thêm một số gia đình người Bắc cư ngụ đây đó, công sở có nhiều người Bắc làm việc hơn, niên khóa mới 1954-55 trường Trần Quý Cáp chúng tôi có thêm một số bạn học mới nói tiếng Bắc, trong đó có những “cô em Bắc Kỳ nho nhỏ” rất duyên dáng. Và từ thời điểm này một số giáo sư mới di cư bắt đầu về dạy tại trường, trong đó có thầy Dương Đức Nhự mà mãi cho đến bây giờ tôi vẫn giữ những liên hệ đầy tình cảm. Và, một tiệm phở được khai trương một cách tạm bợ ở một con đường gần chợ. Tiệm phở này tôi cho là một nét văn hóa ẩm thực Bắc Kỳ đầu tiên xuất hiện một cách rõ rệt tại cái thành phố rất kiên cố về mặt truyền thống của chúng tôi. Trên những chuyến xe đò Hội An - Đà Nẵng nay thường có mặt một số hành khách mới, đó là một số các bà di cư có lẽ đi buôn bán, khi bước lên xe thường nói “Tôi đi Tu Đoan” mãi sau tôi mới hiểu các bà muốn nói Tourane, tức Đà Nẵng gọi theo lối Pháp.
Làn sóng di cư đến với Hội An tương đối mỏng và nhẹ nhàng, tất cả bà con di cư hòa nhập vào nếp sống Hội An một cách êm đềm, không gây một xáo trộn nào trên vẻ trầm lặng của thành phố cổ này. Nhưng ai cũng biết tầm cỡ của cuộc di cư trên cả miền Nam thì rất lớn lao, đã đem lại nhiều thay đổi tích cực trên nhiều lãnh vực trong phần lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17. Điều ấy dễ hiểu, vì bỗng nhiên miền Nam có thêm gần một triệu công dân, trong đó có rất nhiều thành phần ưu tú của đất nước.
Từ đó đến nay 60 năm đã qua. Chẵn một chu kỳ 12 con giáp. Trong đời một người khó có chuyện gặp lại kỷ niệm lần thứ hai sáu mươi năm biến cố này.
PXĐ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét