Năm 1954, tôi vừa tốt nghiệp văn bằng
Tú tài II qua kỳ thi vào tháng 6 tại Hà nội, thì được tin quân đội quốc
gia đã rút khỏi miền quê tôi tại Huyện Xuân Trường Tỉnh Nam Định để ra
Hải phòng bằng đường thủy. Và một số bà con ruột thịt của tôi cũng tìm
cách kiếm được thuyền bè để mà đi theo đoàn quân tới được thành phố cảng
này. Tôi lại có ông anh cả thuộc đơn vị quân đội trú đóng ở Quảng Yên
sát với mỏ than Hòn Gai. Nên vào đầu tháng 7, tôi đã tìm cách đi từ Hà
nội đến Hải phòng để tìm gặp bà con và đi thăm gia đình ông anh luôn
thể.
Trước khi rời Hà nội, tôi phải đến nhà Thầy Nguyễn Ngọc Cư là Phó
Trưởng Ban Giám Khảo kỳ thi Tú Tài, để xin Thầy cấp cho một Giấy Chứng
Nhận Đã Thi Đậu Tú Tài, để nộp kèm theo hồ sơ ghi danh vào Đại học. Dù
đã biết rõ tôi là học trò của Thầy tại trường Chu Văn An, mà đã thi đậu
trong kỳ thi vừa qua, Thầy vẫn phải cẩn thận rà lại danh sách các thí
sinh trúng tuyển, rồi mới cấp cho tôi một “Giấy Chúng Nhận Tạm Thời” để
tùy nghi sử dụng. Thầy nói : Giấy Chứng Nhận Chính Thức phải do Nha Học
Chánh thuộc Bộ Giáo Dục cấp phát, chứ Ban Giám Khảo chỉ có thể cấp Giấy
Chứng Nhận Tạm Thời mà thôi. Biết tôi có ý định vào miền Nam, Thầy cầu
chúc tôi lên đường gặp nhiều may mắn.
Ở vào tuổi 20 lúc đó, tôi nhìn cuộc đời với nhiều lạc quan tin tưởng,
nên chẳng hề e ngại trước cuộc phiêu lưu phải rời xa quê hương đất Bắc,
để mà đi tới miền Nam xa xôi cả mấy ngàn cây số. Một phần đó là do tính
ưa thích đi đây đi đó xông pha mạo hiểm của tuổi trẻ – như cụ Nguyễn
Công Trứ nói : “Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây – Cho phỉ sức vãy vùng
trong bốn bể”. Nhưng phần lớn chính là do động cơ thúc đảy bởi cái
chuyện “phải tránh thoát khỏi cái nạn cộng sản độc tài nham hiểm “, mà
đang sắp sửa bủa vây, bao trùm xuống khắp miền Bắc.
Tôi phải ở lại thành phố Hải phòng đến hơn một tháng, thì mới tìm
được phương tiện chuyên chở vào đến Sài gòn hồi giữa tháng 8. Đó là nhờ
một ông chú là cháu của bà nội tôi, tên là chú Nhân. Chú làm việc tại cơ
quan hành chánh phụ trách về việc sắp xếp tàu bè đi vào Nam, nên đã xin
cấp trên ưu tiên cấp phát giấy tờ di chuyển cho tôi và một bà cô là Cô
Nguyệt để leo lên được chiếc tàu khá lớn của quân đội Pháp có tên là
Gascogne. Con tàu này chuyên môn chở quân trang quân dụng cho quân đội,
nên không có đủ tiện nghi như là tàu chở hành khách thông thường. Nhưng
mà lúc đó, lớp người di cư tỵ nạn chúng tôi đâu còn có sự lựa chọn nào
khác, miễn là đi thoát khỏi miền Bắc cộng sản là được may mắn lắm rồi.
Số lượng hành khách trên tàu lúc đó có đến 7 – 800 người, phần đông là
từ các tỉnh xa thuộc đồng bằng sông Hồng mà sớm ra được tới Hải phòng để
kịp đi vào Nam trong mấy chuyến đầu tiên được tổ chức cấp tốc sau ngày
ký kết Hiệp Định Geneva 20 Tháng Bảy 1954, chia đôi đất nước. Mãi mấy
tháng sau, thì mới có loạt các tàu của Mỹ với các tiện nghi thoải mái
hơn để chuyên chở số lượng rất đông đảo người di cư từ Bắc vào Nam.
Con tàu chạy trong chừng ba ngày, thì đến Cap Saint Jacques, tức là
cảng Vũng Tàu bây giờ, để chuẩn bị vào cửa sông đi đến bến Nhà Rồng của
thành phố Sài gòn. Sau khi tàu cập bến ít lâu, thì chúng tôi được xe
chuyên chở đưa tới nơi tạm cư là trường Tiểu học Tôn Thọ Tường trên
đường Trần Hưng Đạo bây giờ (mà hồi đó vẫn còn mang tên Pháp là
Boulevard Galliéni) cũng gần với Chợ Bến Thành.
Lúc đó bên phía đối diện với ngôi trường, thì có một tòa nhà lớn đang
được xây cất, mà sau này chính là rạp chiếu phim Đại Nam. Bà con di cư
chúng tôi được các công nhân ở đây thật là hào phóng cấp cho một số gỗ
ván gỡ ra từ giàn “cốt pha”(coffrage), để dùng làm củi đun cơm, nấu
nước. Đó thật là một nghĩa cử đầu tiên của người dân Sài gòn đối với lớp
người mới chân ướt chân ráo từ ngòai Bắc vào miền Nam – chuyện này
khiến cho tôi cứ nhớ hoài.
Chúng tôi được mấy bà con đến được Sài gòn vài ba tuần lễ trước, nên
họ tìm đến để chỉ dẫn đường đi nước bước tại cái thành phố rộng mênh
mông này. Riêng tôi thì gặp lại một số bạn bè cũng từ Hà nội hay từ Nam
Định mà đến đây trước như Võ Thế Hào, Trần Ngọc Vân, Nguyễn Phi Hùng .
Các bạn cũng giúp tôi việc này chuyện nọ trong bước đầu còn nhiều bỡ
ngỡ.
I – Những kỷ niệm khó quên của Sinh viên Di cư.
Sau vài bữa, thì tôi làm xong thủ tục ghi danh ở Đại học Saigon và
được nhận vào ở trong Trường Gia Long là nơi được dành riêng cho các
sinh viên di cư. Tại đây, sinh viên chúng tôi được cư ngụ trong khu ký
túc xá, nên có đày đủ tiện nghi về nơi ăn chốn ở, nhà vệ sinh, phòng tắm
giặt thật là đàng hoàng tươm tất. Ban tiếp cư còn lo cho chúng tôi mỗi
ngày ba bữa ăn đày đủ. Và mỗi tháng chúng tôi còn được cấp phát cho một
số tiền nho nhỏ để chi tiêu lặt vặt.
Cũng tại nơi tạm cư này, có lần chúng tôi lại được tiếp đón cả Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm cùng phái đoàn chánh phủ đến thăm nom và úy lạo sinh
viên nữa. Nói chung, thì sự chăm sóc của nhà nước đối với lớp người di
cư đầu tiên trong mấy tháng cuối năm 1954 rõ ràng là đã được tổ chức hết
sức chu đáo, gọn gàng. Đặc biệt là mấy trăm sinh viên từ Hanoi như tôi
đã được hưởng một chế độ ưu đãi quá tốt đẹp, vượt xa ngoài sự mong ước
của nhiều người trong hàng ngũ chúng tôi.
Nhưng rồi đến lúc các học sinh tựu trường, thì sinh viên chúng tôi
phải di rời ra cư ngụ tại khu lều vải được dựng lên trên nền đất của
Khám lớn Sài gòn cũ sát bên Tòa Án, để trả lại trường ốc cho nữ sinh Gia
Long. Vào cuối năm, trời Saigon nắng nực nên vào ban trưa nhiều anh em
chúng tôi phải tìm cách chạy đến các công sở lân cận, nơi có nhiều bóng
cây che rợp cho bớt nóng. Và chúng tôi đã ăn cả hai cái Tết Tây và Tết
Ta đầu năm 1955, tại khu lều vải tạm trú này.
II – Vài chuyện ngộ nghĩnh tại Khu Lều Khám Lớn.
Xin vắn tắt ghi lại vài chuyện vui vui ngộ nghĩnh trong dịp vui xuân năm Ất Mùi 1955 tại Khu Lều Khám Lớn như sau đây.
1 – Một nhà báo người Pháp của tờ “Le Parisien libéré” đến chụp hình
và phỏng vấn sinh viên chúng tôi. Anh chụp ảnh lia lịa về cái cảnh anh
Lưu Trung Khảo viết mấy câu đối Tết bằng chữ Hán. Từ đó mà sinh viên
chúng tôi tặng cho anh Khảo cái biệt danh “Ông Đồ Khảo”.
Hồi đó sinh viên chúng tôi đều nói rành tiếng Pháp, nên đã trả lời
các câu hỏi của anh nhà báo này một cách suôn sẻ thỏai mái. Tôi còn nhớ
đã nói với anh ấy rằng : “Chúng tôi vừa là nạn nhân, vừa là chứng nhân
của sự tàn bạo của người cộng sản độc tài. Do đó mà phải bỏ lại quê
hương ở miền Bắc để đi tìm được tự do tại miền Nam này. Cụ thể là riêng
trong gia đình tôi, thì đã có hai người bị cộng sản sát hại. Đó là vào
năm 1947 công an cộng sản đã giết ông cậu là em của mẹ tôi tên là Tống
Văn Dung và đem quăng xác ông xuống con sông Trì Chính ở Phát Diệm .Và
họ còn đến tận nhà bắt cả cha tôi là Đoàn Đức Hải từ năm 1948 mang đi
biệt tích luôn…”
2 – Cũng vào dịp Tết Ất Mùi này, Đoàn Sinh viên Di cư chúng tôi còn
thực hiện được một tờ Đặc san lấy tên là “Lửa Việt’ với chủ đề là “Xuân
Chuyển Hướng” với các cây bút sau này rất nổi danh, đó là Vũ Khắc Khoan,
Nguyễn Sĩ Tế, Dõan Quốc Sĩ, Trần Thanh Hiệp, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền
v.v…
3 – Và riêng tại căn lều gồm 8 người của tôi, thì để mừng xuân anh
bạn Bùi Đình Nam đã ra tay làm đầu bếp chiên cho chúng tôi một món bí
tết thật đặc sắc. Chúng tôi lại còn được uống cả một chai rượu chát hiệu
Beaujolais của Pháp nữa. Miếng ngon này làm cho bọn trẻ chúng tôi lúc
đó mới ở vào cái tuổi đôi mươi, thì không bao giờ mà chúng tôi lại quên
được.
Thật là những kỷ niệm khó quên của cái thời bọn thanh niên trai trẻ
chúng tôi mới đến sinh sống nơi miền đất xa lạ Sài gòn này. Cuối cùng,
thì vào khoảng sau Tết Âm lịch không lâu, chúng tôi được dọn đến khu Đại
học xá Minh Mạng vừa mới xây cất xong. Sinh viên di cư chúng tôi là
những người đầu tiên đến cư ngụ tại khu cư xá này với đày đủ tiện nghi
phòng ốc, giường tủ, điện nước …Và cứ như vậy cuộc sống của chúng tôi
lần hồi đi vào mức ổn định và hòa nhập được với nền nếp của cả thành phố
thủ đô của miền Nam tự do, phồn thịnh và thanh bình.
III – Chuyện về các anh chị em trong gia đình của tôi.
Còn về phần riêng gia đình các anh chị em ruột thịt của tôi, thì kẻ
trước người sau chúng tôi đều quy tụ lại được với nhau trên mảnh đất
miền Nam an lành, và nâng đỡ bảo bọc nhau xây dựng lại cuộc sống mới.
Lúc đó các anh chị lớn đều ra sức hợp với nhau mà chăm lo chu đáo cho
mấy em còn nhỏ dại cỡ tuổi 10 – 16, vì cha mẹ chúng tôi đều đã khuất
bóng từ trước rồi.
Và rồi đến lượt các cháu thuộc thế hệ thứ hai trong đại gia đình
chúng tôi , thì các cháu đều đã thành đạt tại miền Nam này. Vì thế, khi
các cháu khôn lớn, thì đều bày tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ vì đã hy
sinh hết mình, để mà đem được các cháu vào miền Nam – và nhờ đó mà các
cháu có được những cơ hội tốt đẹp để học tập và gặt hái được nhiều thành
công trên đời. Điều này càng rõ rệt, vì sau năm 1975 chúng tôi được gặp
lại bà con từ quê hương ngoài Bắc vào thăm, thì họ đều xác nhận là họ
bị cán bộ cộng sản đàn áp, bóc lột, chèn ép kỳ thị tàn bạo đến độ túng
đói khốn khổ điêu đứng vô cùng!
* * Năm 2014 này, nhân dịp kỷ niệm 60 năm Ngày Đặt Chân đến miền Nam
Tự Do (1954 – 2014), tôi xin ghi lại một số kỷ niệm riêng tư của mình
như là một chứng từ của một thanh niên là một thành viên của khối gần
một triệu người di cư tỵ nạn cộng sản, mà đã phải bỏ lại tất cả tài sản
nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả cha ông trên đất Bắc để đi xây dựng cuộc sống
mới tại miền đất tự do, no ấm và an hòa ở phía Nam của tổ quốc Việt
nam.
Và nhân dịp này, với tư cách là một người thụ ơn, tôi xin được bày tỏ
lòng biết ơn đối với nhân dân các quốc gia đã góp phần yểm trợ cho công
cuộc di chuyển và định cư vĩ đại của cả triệu đồng bào chúng tôi trong
những ngày tháng đen tối đó. Và tôi cũng không quên công lao của các
nhân viên Chánh phủ, của Quân đội miền Nam Việt nam, và của biết bao
nhiêu cơ quan thiện nguyện khác mà đã lo lắng chăm sóc thật là chu đáo
tận tình cho lớp người di cư chúng tôi vào thuở đó. Dù chỉ là một cá
nhân nhỏ bé, lời nói của tôi lại hết sức trung thực, như là một biểu
hiện của sự cảm thông sâu sắc và quý mến chân thành đối với tất cả các
vị ân nhân đáng kính của cả một thế hệ người di cư từ miền Bắc Việt nam
năm 1954 vậy.
Nhân tiện, tôi cũng thấy cần phải ghi lại nơi đây tấm lòng quảng đại
nhân ái của nhân dân miền Nam – đã mở rộng vòng tay đón nhận và bao bọc
che chở cho bà con ruột thịt là nạn nhân khốn khổ bất hạnh của nạn độc
tài cộng sản, nên đã phải bỏ lại nơi chôn nhau cắt rốn ở ngòai Bắc để
tìm tự do tại miền Nam. Ân nghĩa đó thật là cao cả rộng lớn như Trời
Biển và đã góp phần củng cố thêm cho Sức mạnh tổng hợp của tòan thể Dân
tộc chúng ta nữa.
Thành phố Costa Mesa California, tháng Bảy năm 2014
© Đoàn Thanh Liêm
© Đàn Chim Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét