Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Trong vỏ hạt dẻ

Theo blog 5 Xu
Năm 1940.
Vào năm này chính quyền Vichy ở Pháp thân phe trục (phát xít), các nhân viên ngoại giao của Pháp ở Tokyo đạt được thỏa thuận với chính quyền quân phiệt Nhật, qua đó chính quyền Đông Dương thuộc Pháp “tề” Nhật. Người Nhật, sau khi thoát khỏi cái bóng khổng lồ của ý thức hệ Trung Hoa, đã tự mình phương tây hóa, tự chủ, lớn mạnh và thắng luôn cái bóng đen khổng lồ Trung Hoa (chiến tranh Trung Nhật Giáp Ngọ 1894-1895), thắng quân đội Nga (1904-1905), chiếm toàn bộ Triều Tiên, rồi chiếm toàn bộ Trung Hoa (1937-1945) và ở thời điểm Pháp ở Đông Dương (Indochina) tề Nhật (1940) thì Nhật đã chiếm Đông Nam Á.
Indochina rất quan trọng. Người Nhật dùng phía bắc (Đàng Ngoài, Đông Kinh = Tonkin) để làm hậu cần cho quân đội Nhật ở Quảng Tây và Vân Nam thông qua cảng Hải Phòng và đường bộ đi tới Lạng Sơn. Họ dùng phía nam (Đàng Trong = Cochinchina) để làm căn cứ hải quân và không quân . Lúc này quân đồng minh (Hoa Kỳ) đã có các hoạt động quân sự ở quanh Hà Nội và Hải Phòng, quân Nhật đã bị máy bay Mỹ ném bom.

Trong một quãng thời gian rất ngắn ở thời điểm Pháp Nhật đang thỏa thuận, ngày 22.9.1940 quân đội Nhật cùng một nhóm quân vũ trang người Việt và người Hoa (Kiến quốc quân, thuộc Việt Nam Phục Quốc Quân của Hoàng Thân Cường Để) tiến từ Trung Quốc vào Việt Nam qua Đồng Đăng, đánh thành Lạng Sơn. Quân Pháp rút chạy, rồi sau đó quân Nhật cũng rút trở lại qua biên giới. Kiến quốc quân và chỉ huy Trần Trung Lập ở lại chiến đấu, sau bị Pháp bắt và xử bắn ở Lạng Sơn. Cũng nhân biến cố này, các tù nhân của Đảng cộng sản Đông dương được Nhật thả ra từ nhà tù Lạng Sơn khởi nghĩa. Ngay sau đó Chu Văn Tấn được Hoàng Văn Thụ điều xuống nắm quyền. Cuộc khởi nghĩa này, chính là khởi nghĩa Bắc Sơn, bị Pháp quay lại dẹp rất nhanh.
Trong quãng thời gian ngắn ngủi ấy ủy ban khởi nghĩa đã thử nghiệm được mô hình chính quyền khởi nghĩa sau này được Việt Minh áp dụng khắp nơi trước khi chiến tranh Pháp -Việt (chiến tranh Đông Dương) nổ ra. Trong các thử nghiệm ấy có cả đánh du kích, phá hoại và tảo thanh (giết những người mà họ khép vào tội Việt gian). Chu Văn Tấn sau trở thành Bộ trưởng quốc phòng đầu tiên của chính phủ Hồ Chí Minh sau Cách mạng Tháng Tám.
Năm 1787.
Trước cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn rất lâu, vào năm 1787, ông Thomas Jefferson lúc này đang làm ngoại giao cho Hoa Kỳ ở Pháp, viết thư cho bạn mình là William Drayton, trong đó có nhắc đến việc mình đang đi tìm kiếm một loại giống lương thực phù hợp với thổ nhưỡng Hoa Kỳ, và ông đã tìm ra giống lúa cạn của Xứ Đàng Trong (Cochinchina) có lẽ là phù hợp, thậm chí ông còn gặp Hoàng tử của Xứ Đàng Trong.
Thomas Jefferson là người viết Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, và sau này thành tổng thống Mỹ. Hoàng tử nhỏ bé là Hoàng tử Cảnh, con trai trưởng của vua Xứ Đàng Trong là Nguyễn Ánh, lúc này khoảng 8 tuổi, đang ở cùng hoàng hậu Marie Antoinette và được bà hoàng này sủng ái. Hoàng hậu sau bị giết trong cách mạng Pháp. Hoàng tử Cảnh chết một năm trước khi vua cha lên ngôi vua toàn cõi Việt Nam với tên gọi Gia Long (1802).  Em Hoàng tử Cảnh là Hoàng tử Đảm sau nối ngôi Gia Long, trở thành vua Minh Mạng. Con cháu Hoàng tử Cảnh bị phế để tránh hậu họa.
Hoàng thân Cường Để là cháu trực hệ đời thứ tư của Hoàng Tử Cảnh và xét theo kiểu dòng đích tôn thì Cường Để mới là đích tôn của vua Gia Long.
Thomas Jefferson của Mỹ gặp ông hoàng nhỏ của Xứ Đàng Trong ở Paris là tín hiệu nhỏ bé nhưng là sự khởi đầu của nước Việt Nam trong vòng xoáy đầy biến động của thế giới. Cho đến nhà Lê, nước Việt giam mình ở mảnh đất bé nhỏ sau bị người Pháp gọi là Tonkin và chưa từng biết đến thế giới bên ngoài. Với họ, thế giới chỉ có một nền văn minh là Trung Hoa, một ý thức hệ Nho giáo, một mô hình thể chế cần bắt chước là triều đình Trung Hoa, về ngoại giao chỉ có một hình thức vương quốc vệ tinh, quan hệ với Trung Hoa theo kiểu chư hầu, và một kẻ thù “man di” là nước Chàm ở phương Nam. Các biến động tiếp theo, xuất hiện thêm phú Chúa của nhà Trịnh, rồi hình thành thêm thế lực đối nghịch là chúa Nguyễn ở đàng trong, nhưng cũng không làm thay đổi bối cảnh được bao nhiêu. Ngay cả dòng họ chúa Nguyễn mở cõi vào phương Nam vẫn không thoát khỏi cái bóng của của triều đình nhà Lê, cho dù lúc này bị nhà Trịnh chi phối. Mãi cho đến chúa  thứ 6 là Nguyễn Phúc Chu mới sang Tàu xin phong vương nhưng bị từ chối vì Tàu vẫn coi đất đàng trong là thuộc nhà Lê.
Thời trước không có cách mạng, chỉ có làm loạn. Được làm vua thua làm giặc. Làm loạn chỉ có hai kiểu. Loạn trong triều đình, quan lại làm loạn chống vua này dựng vua kia, phục vụ lợi ích nhóm. Và loạn ngoài triều đình, nhân dân hoặc cán bộ địa phương bất mãn nổi lên chống lại triều đình. Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Nhạc – Nguyễn Huệ bắt đầu là là các cán bộ thuế địa phương kiêm buôn lậu nổi chống lại quan lại triều đình, là Trương Phúc Loan, vốn là kẻ lạm quyền rồi giết vua (cha ruột Gia Long) toan lên làm vua. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn lớn mạnh dần, dẹp cả nhà Nguyễn đàng trong, dẹp luôn Lê Trịnh ở đàng ngoài, chống ngoại xâm từ phương bắc, đánh cả ngoại xâm ở phương nam. Đánh xong, thống nhất gần trọn vẹn đất nước,  Nguyễn Huệ lên làm vua, rồi chết. Nguyễn Ánh vùng dậy giệt nhà Tây Sơn, lên làm vua hưởng cả cơ đồ. Nhà Nguyễn tồn tại đến đời thứ tư là vua Tự Đức thì Pháp – Tây Ban Nha nổ súng vào Việt Nam năm 1858.
Thời nhà Nguyễn  xã hội phức tạp, nhất là thời Minh Mạng cải cách hành chính. Nổi loạn khắp nơi nhưng dẹp được cả. Hoàng tộc yếu dần, quan lại lạm quyền, tham nhũng phe phái, thường xuyên qua mặt vua, bản thân quan lại chia phe tranh đấu với nhau vì lợi ích nhóm và quan điểm đối ngoại. Quân đội lạc hậu, kinh tế yếu kém, nông nghiệp mất mùa. Chính sách chống Pháp của triều đình nhà Nguyễn rất ngô nghê và tàn nhẫn: đóng cửa với thế giới bên ngoài và giết người theo đạo vô tội vạ. Các quan đại thần thay mặt vua, ký các hiệp định với Pháp. Mất Nam Kỳ (tên Minh Mạng đặt cho Xứ Đàng Trong) vào tay Pháp, rồi mất cả nước với hai hòa ước 1883, 1884.  Sau hòa ước Giáp Thân, còn gọi là Hòa ước Patenôtre Người Pháp dùng danh từ người phương tây gọi Xứ Đàng Trong để đặt cho thuộc địa mới này: Cochinchina. Miền bắc họ gọi là Tonkin (Đông Kinh) và miền trung là vương quốc Annam (nơi triều đình Huế vẫn tồn tại một cách hình thức).
Ba miền có thể chế riêng, đi lại giữa ba miền phải có visa. Sau này người Pháp tách nốt cao nguyên và người dân tộc, bắt người Kinh đi lên vùng này phải có giấy phép. Cho đến khi chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên (1945), mới đổi lại tên ba miền là Nam Bộ, Trung Bộ, Bắc Bộ.
Dưới sự cai trị của nước Pháp, người Việt bắt đầu, một cách quá đột ngột, sống trong những thể chế chính trị hoàn toàn mới. Quan lại trong triều chia phe, phe chống Pháp bắt đầu khởi nghĩa. Tôn Thất Thuyết dùng danh vua Hàm Nghi khởi nghĩa Cần Vương. Các cuộc khởi nghĩa chống Pháp và phe triều đình thân Pháp diễn ra liên tiếp và cuối cùng đều thất bại. Cuộc khởi nghĩa cuối cùng là của Phan Đình Phùng (chết 1895). Các cuộc khởi nghĩa chống Pháp và triều đình thân Pháp không mang lại điều gì mới. Bình Tây Sát Tả không Bình được Tây mà chỉ Sát được Tả (người Việt theo Công Giáo). So với cuộc khởi nghĩa Tây Sơn dẫn đến một cuộc nội chiến kéo dài 30 năm mà người Việt đăng lính để giết người Việt, thì phong trào Sát Tả là lần đầu tiên người dân thường giết nhau vì khác biệt tôn giáo và phe phái. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam tinh thần “yêu nước truyền thống”, tinh thần “chống ngoại xâm truyền thống” bắt đầu chuyển thành yêu nước kiểu độc quyền. Những người yêu nước khác tín ngưỡng, khác phe phái sẽ bị tiêu diệt bởi những người cũng yêu nước như mình mà khác tín ngưỡng khác phe phái.
Thất bại ắt dẫn đến tìm tòi. Như thường lệ trí thức tinh hoa đi tìm trước, và nơi họ tìm đầu tiên là ở nước Tàu. Người Tàu lúc này cũng đang loay hoay tìm  những  tư tưởng mới, mô hình mới, thể chế mới. Sau thất bại của nhà triều đình nhà Thanh trước quân đội Pháp ở vùng đất do họ bảo hộ là Tonkin (dẫn đến hiệp ước Pháp Thanh), rồi thất bại tiếp theo trước đế quốc Nhật ở một đất nước chư hầu khác là Triều Tiên, rồi họ để mất cả Đài Loan và miền bắc vào tay Nhật. Trí thức Tàu đi tìm những ý tưởng mới ở …nước Nhật của thời đại hậu Minh Trị (Meiji).
Phan Bội Châu xuất hiện trong hoàn cảnh ấy. Ông đến Nhật và có gặp trí thức cải cách Lương Khải Siêu của Trung Hoa đang lưu vong ở Nhật. Các tư tưởng quân chủ lập hiến, làm báo để thức tỉnh người dân, mở trường để truyền bá tri thức mới, …là do Phan Bội Châu học và bị ảnh hưởng của các nhà cải cách người Tàu này và ảnh hưởng của nền giáo dục Thoát Á của Nhật.
Trong những ý thức hệ mới mẻ, thổi vào đầu Phan Bội Châu, phải kể đến thuyết Social Darwinism (thuyết tiến hóa xã hội Darwin) vốn rất thịnh hành lúc bấy giờ. Thuyết này nói về đấu tranh sinh tồn của các chủng tộc, chính là lý thuyết về sau kết hợp với tư tưởng của Nietzsche đã hình thành ý thức hệ của chủ nghĩa dân tộc sức mạnh và hình thành nhà nước Phát Xít.
Phan Bội Châu nhận ra rằng, chủng tộc Việt (ông gọi là giống nòi) không thấp kém hơn người da trắng, ít nhất là cũng phải bằng người Nhật vừa mới chiến thắng người da trắng Nga, và chiến thắng người Hoa, giống như người Việt đã từng thắng Tống bình Chiêm. Tuy nhiên quý ông da vàng Phan Bội Châu đặt chủng tộc da vàng và chủng tộc da trắng bằng nhau, và cao hơn các màu da khác: “Giống vàng, giống trắng tinh anh. Giống đen, giống đỏ, giống xanh ngu hèn”.
Từ ý thức hệ này, Phan Bội Châu tìm đồng minh là các giống đồng chủng với mình (nước Nhật) và tìm một ông hoàng thuộc dòng chính thống và có ý thức chống Pháp (Hoàng thân Cường Để) để mang qua Nhật rồi lập Hội nhằm tìm cơ hội xây dựng một nhà nước của giống nòi Việt, một nhà nước mà tiếng Nhật gọi là “Kokumin kokka” vay mượn từ khái niệm nation state (nhà nước dân tộc, nhà nước quốc dân) tức là một nhà nước của nhân dân (cộng hòa dân quốc). Ý thức hệ này, được Phan Bội Châu hiện thực hóa thành một chính phủ lưu vong ở hải ngoại, dù tên của nó là Hội Phục Hồi Quá Khứ Vinh Quang của Việt Nam (Việt Nam Quang Phục Hội, 1912). Nhà nước lưu vong này có quân đội (quang phục quân) và quân kỳ – quốc kỳ (trên đó thể hiện người da vàng đấu tranh chống người da trắng), và tiền (quân dụng phiếu).  Ở hải ngoại, Phan Bội Châu là người đầu tiên sử dụng và khuếch trương tên Việt Nam (do Gia Long đặt năm 1802) thay cho Annam. Trong nước thì Nguyễn Thái Học là người đầu tiên nhắc lại tên này với đại chúng khi ông hô Việt Nam vạn tuế trước pháp trường (1930). Xem thêm “Con đường của rồng
Như vậy từ ý thức hệ Social Darwinism, Phan Bội Châu xây dựng được sách lược hành động: xây dựng nhân lực bằng du học (Đông Du), chống Pháp bằng bạo lực, xây dựng nhà nước dân tộc, độc lập, dựa vào Nhật, Trung để thực hiện, từ hải ngoại đánh vào trong nước.
Năm 1906. 
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh qua Quảng Đông, rồi lần lượt đi qua Nhật. Lúc gặp Lương Khải Siêu ở Nhật, bộ óc cải cách lớn của Trung Hoa này đã khuyên, có lẽ cả hai ông Phan, một lời khuyên đến giờ vẫn còn đúng: “Quý quốc chớ lo không có ngày độc lập, mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập. Thực lực của quý quốc là dân trí, dân khí và nhân tài”.
Từ đây Phan Bội Châu xây phong trào Đông Du (1905-1909) đưa du học sinh qua Nhật, còn Phan Chu Trinh xây dựng Duy Tan, trong đó có Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội, theo mô hình của Fukuzawa Yukichi (1907-1908).  Hai phong trào này đều bị Pháp tìm cách dập tắt rất nhanh.  Ở thời điểm quan trọng này Phan Bội Châu đang ở độ tuổi 40, còn Phan Chu Trinh trẻ hơn một chút.
Các gia đình địa chủ ở Cochinchina là những người sớm nhận ra sự thiệt thòi của “nòi giống” Việt trong lĩnh vực kinh tế, khi mà người Pháp dành độc quyền làm kinh tế cho các tập đoàn Hoa Kiều. Họ gửi con cái của mình cho Phan Bội Châu và Cường Để, chu cấp tiền bạc cho các hoạt động của Phan Bội Châu và Cường Để. Người Nam Kì không quên công ơn dựng cõi phía nam của Gia Long và công ơn ông hoàng tử Cảnh cai trị Sài Gòn ngày xưa. Cường Để là ngọn cờ của giống nòi để người miền nam đặt lòng tin vào. Thế nhưng Nhật lúc này tuy thắng Tàu mà vẫn ở thế yếu hơn Pháp, đã nghe Pháp mà trục xuất Phan Bội Châu cùng Cường Để (1909). Cường Để lưu vong mấy năm qua nhiều nước, trong đó đáng kể nhất là bí mật quay về Cochinchina gặp người yêu và chuyến đi qua Anh Quốc cùng các thanh niên tinh hoa của nhóm Đông Du.
Theo một vài tư liệu, chính vào quãng thời gian sống ở nước Anh, nhóm Cường Để đã gặp Nguyễn Tất Thành, lúc này chỉ hơn 20 tuổi, đã từ Mỹ trở về và đang loay hoay với cuộc sống mới ở Châu Âu. Rất có thể các ý tưởng về dân chủ, quyền con người đã được nhóm thanh niên quý tộc và thượng lưu miền nam reo mầm tư tưởng vào Nguyễn Tất Thành. Trước đó, khi ở Mỹ,  Nguyễn Tất Thành đã học được kỹ năng diễn thuyết  cho đám đông từ các nhà hoạt động xã hội ngườ Mỹ da đen. Tư tưởng ấy, cách diễn đạt ấy đã đi theo Nguyễn Tất Thành tới Paris (1919), được củng cố qua các cuộc tranh luận thâu đêm suốt sáng trong nhóm Ngũ Long của Phan Chu Trinh. Lúc này Phan Chu Trinh bị chính quyền Pháp ở Indochina “cất” qua “mẫu quốc” cho lành. Chất “dân chủ Mỹ” đã đi theo cuộc đời chiến đấu của Nguyễn Tất Thành, cho dù có mai một ít nhiều, cho đến khi nó được thể hiện thành lời, cả về ý nghĩa lẫn hình thức diễn thuyết trên bản Tuyên ngôn Độc lập. Tất nhiên, mọi người đều biết, lời trích dẫn trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam, có đoạn trích từ Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ do Jefferson, người đã gặp Hoàng tử Cảnh ở Paris như đã nói ở trên. Hậu duệ của Hoàng Tử Cảnh, ông hoàng Cường Để, đã trực tiếp tác động đến suy nghĩ của Nguyễn Tất Thành (ở London) và gián tiếp giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc (ở vụ ném bom Sa Diện và khởi nghĩa Bắc Sơn).
Lịch sử không một chút vô tình khi đưa người đàn ông trẻ Nguyễn Tất Thành, người ở độ tuổi  20 không đủ tiền để Đông Du, phải tây du bằng nghề bồi tàu, cuối cùng lại gặp tất tần tật những ngọn cờ đầu của Duy Tân ở Paris (1919-1923: gặp Phan Chu Trinh), của Đông Du ở London (1913: gặp Cường Để) và ở Quảng Châu (1925: gặp Phan Bội Châu).
Chưa hết, lịch sử còn tòi ra một chi tiết khác ấn tượng hơn nhiều. Lực lượng ủng hộ Cường Để ở miền trung (Annam) và miền nam (Cochinchina) tuyển mộ và xây dựng được nhiều nhân vật chống Pháp và thân Nhật. Một trong những nhân vật ấy chính là Ngô Đình Diệm, lãnh đạo quốc gia đầu tiên ở miền nam chống lại lãnh đạo cộng sản miền bắc là Hồ Chí Minh, tức là Nguyễn Ái Quốc, tức là Nguyễn Tất Thành ngày trước.
Lối đi của Phan Bội Châu, và cả Phan Chu Trinh, không sai về lối, mà sai về nguồn lực và phương thức. Cũng lối đi ấy, người Triều Tiên thành công với việc đánh đổ ách đô hộ của Nhật và họ gọi ngày này là ngày …Quang Phục (Kwangbok). Còn người Hoa thành công rực rỡ hơn nhiều với cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911 của Tôn Dật Tiên: lật đổ thể chế phong kiến ngàn đời và thành lập nhà nước tư bản. Có một điều kì quặc thú vị, là chủ nghĩa Tam Dân và mô hình tổ chức kiểu Đồng Minh Hội của Tôn Dật Tiên được các đảng chính trị của người Việt ở Indochina thuộc Pháp và các tổ chức chống Pháp ở hải ngoại (Quảng Châu) bắt chước, còn chính ông Tôn Dật Tiên này để làm cách mạng thì lại lưu vong ở …Hàng Buồm (Hà nội, Tonkin) năm 1904.  Có một điều cũng kì quặc không kém, đó là nhà nước của Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng, tức Đài Loan, được chính phủ Ngô Đình Diệm gọi là Trung Hoa (để phân biệt với Trung Cộng), rất thân với Ngô Đình Nhu. Thế nhưng  một lãnh đạo của Việt Nam Quốc Dân Đảng là nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, khi bị mật vụ của Ngô Đình Nhu đuổi bắt lại chạy trốn vào sứ quán Đài Loan ở Sài Gòn vì …thấy nước này cùng ý thức hệ với đảng của mình.
Ngoại trừ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và Nhất Linh, tất cả các nhân vật được nhắc tên ở trên đều có gốc từ vùng mà nhà sử học K.W. Taylor gọi là Thanh – Nghe – Tinh. Sử gia Taylor nhận xét và giải thích: vùng đất Thanh-Nghe-Tinh ở phía Nam vương quốc của Lê Trịnh, rồi sau đó nằm dưới sự ảnh hưởng của nhà Nguyễn. Vùng đất này không có tâm thức trung thành với hoàng gia họ Nguyễn. Đây cũng là vùng đất chống công giáo dữ dội nhất (thời Minh Mạng?). Dưới thời Pháp thuộc, nó ít bị chính quyền thuộc địa kiểm soát hơn như Tonkin và Cochinchina, lại không bị chính quyền phong kiến Annam được Pháp bảo hộ lúc đó để mắt tới. Những thanh niên đầu tiên trốn qua Trung Quốc cuối những năm 1930 để tham gia tổ chức kháng Pháp là người vùng này. Rất nhiều tiền bối cộng sản có gốc gác ở vùng này. Một trong ba đảng cộng sản đầu tiên, tiền thân của ĐCS Việt Nam, xuất phát từ đây. Chính quyền vô sản đầu tiên chính là Soviet Nghệ Tĩnh (1929-1930).  Nhiều người dân vùng này tham gia cách mạng tháng 8 và tham gia cuộc chiến tranh Pháp Việt. Chính phủ miền bắc sau 1954 sử dụng rất nhiều người gốc Thanh Nghệ. Sử gia Ho Tai Hue Tam sử dụng từ “kinship” để tả những tay hoạt động cách mạng đầu tiên, đặc biệt là các tay cộng sản  tiền bối. Kinship nghĩa là đồng chất đồng màu, là đồng hương, là đồng thổ ngữ, là tin cậy lẫn nhau.
Trong 9 đảng viên đầu tiên mà Nguyễn Ái Quốc tuyển mộ từ Tâm Tâm Xã ở Quảng Châu chỉ có một người gốc bắc là Lâm Đức Thụ. Người này sau bị phát hiện ra là tay trong của mật thám Pháp. Chuyện này lát nữa nói tiếp.
Năm 1908.
Sau vụ Hà Thành Đầu Độc do Hoàng Hoa Thám tổ chức , người Pháp xuống tay dẹp tất tật các phong trào yêu nước, từ Đông Du đến Duy Tân. Đóng cửa cả Đại học Hà Nội. Đồng thời lúc đó toàn quyền mới tên là Albert Sarraut xuất thân con nhà giàu có nghề gia đình là làm báo. Ông này cố gắng thay đổi quan hệ Pháp Việt từ mối quan hệ “cai trị – bị trị” thô bạo qua mối quan hệ bình đẳng và hữu hảo hơn. Trường học, bệnh viện, báo chí được sử dụng cho công cuộc cải cách xã hội từ bên trên này. Một số tờ báo và hội hè trí thức được chính phủ tài trợ ra đời, trong đó có Nam Phong của Phạm Quỳnh được Louis Marty yểm trợ chính thức. Louis Marty, có thời lên đến chức Giám đốc sở mật thám Đông Dương, là một người Pháp (có tài liệu nói Pháp lai) có tài tổ chức, giỏi cả tiếng Việt lẫn Hoa, hiểu biết sâu sắc về xã hội Việt Nam, đỡ đầu cho khá nhiều trí thức tân học, sau này bị Việt Minh coi là kẻ thù đáng sợ nhất. Vai trò nổi bật của ông này là tình báo chính trị . Một vai trò mà sau này Ngô Đình Nhu sao chép y hệt cho Trần Kim Tuyến.
Năm 1913.
Pháp suy yếu vì nằm trong vòng xoáy của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhân cơ hội này, từ Quảng Châu bên kia biên giới, Phan Bội Châu và Cường Để tiến hành đấu tranh bằng bạo động vào trong nước. Phan Bội Châu tổ chức ném bom ở khách sạn Hanoi Hotel ở Tràng Tiền năm  1913. Cường Để hậu thuẫn cho Phan Xích Long tổ chức đánh mìn ở cơ quan công quyền ở Cochinchina. Tất cả những người tham gia đều bị tử hình hoặc tử hình vắng mặt. Vua Duy Tân bị quản thúc năm 1916 do dính líu đến lực lượng nổi dậy. Thủ lĩnh nổi dậy là Trần Cao Vân bị xử tử. Duy Tân bị đưa đi đầy ở đảo Reunion một năm sau đó. Khải Định, giống vua cha là Đồng Khánh, thuộc phe thân Pháp được người Pháp đưa lên ngôi.
Thế chiến thứ nhất kết thúc. Chủ nghĩa quốc gia cơ bắp (muscular nationalism) phát triển mạnh ở Đức. Cách mạng vô sản thành công ở Nga năm 1917.
Người Pháp bắt đầu xây dựng các tuyến đường sắt ở phía bắc, miền trung và miền nam. Họ cũng mở xưởng đóng tàu. Xây cảng. Sau Thế chiến thứ nhất, các nhà đầu tư Pháp mang tiền qua Indochine để kiếm lời. Bắt đầu xuất hiện tầng lớp “thợ thuyền” và “công nhân đồn điền”. Rất nhiều lính thợ và công nhân, lúc trước tình nguyện đi qua mẫu quốc để phục vụ trong chiến tranh, bắt đầu quay về làm việc cho một nền kinh tế hậu chiến bắt đầu bùng nổ ở thuộc địa.  Một tầng lớp lao động mới ra đời dù lúc đó chưa ai biết gọi cái tầng lớp ấy là gì.
Trong A history of the Vietnamese, sử gia Taylor cho biết việc xây dựng đường sắt thành công ở Indochina vừa là niềm tự hào của người Pháp, vừa mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư, vừa là đòn bẩy làm bùng nổ kinh tế ở Indochina, lại vừa là phương tiện giao thông thuận tiện mở rộng chân trời của người Việt Nam.
Theo số liệu của sử gia KW Taylor , chỉ trong vòng 10 năm sau Thế chiến            thứ nhất, tổng đầu tư ở Indochina nhiều gấp 15 lần đầu tư của 30 năm trước đó. Nền công nghiệp xe hơi thế giới cũng bùng nổ vào quãng thời gian này, khiến sản lượng cao su của Indochina tăng gấp 30 lần trong những năm 1920. Công nhân làm việc trong đồn điền cao su, từ dưới 3 ngàn nhân công, tăng lên trên 80 ngàn người. Sản lượng than tăng 300 phần trăm. Sản xuất phục vụ tiêu thụ nội địa phát triển. Xuất khẩu gạo tăng gấp đôi.
Chính trị ở Pháp cũng có nhiều thay đổi. Ngày nay ta nhìn vào chính phủ Hoa Kỳ, các tổng thống và đảng cầm quyền thay đổi thì chính sách cũng thay đổi theo. Ngày xưa chính sách của Pháp ở thuộc địa cũng thay đổi như thế. Thậm chí còn hơn, bởi nó còn phụ thuộc vào cá nhân vị toàn quyền được bổ nhiệm. Albert Sarraut và Maurice Long được coi là những vị toàn quyền ở phe cởi mở, sử dụng các biện pháp dân sự, đặc biệt là báo chí và giáo dục, để xây dựng quan hệ Pháp Việt tốt đẹp dần lên. Sau năm 1919 số trường học ở Indochina tăng lên tuy vẫn tập trung ở các thành phố lớn. Theo số liệu nhà sử học Ho Tai Hue Tam tìm được, đã có 144,300 học sinh đi học tiểu học vào năm 1921. Đến niên khóa 1924-1925 có 187,000 học sinh đi học, trong đó có 17,000 học sinh học cấp 3. Đến năm 1930 có 323,759 học sinh đi học trường công lập và khoảng 60,000 học sinh học trường tư và 3,000 học sinh học trường Pháp lycée (Albert Sarraut ở Hà Nội, Chasseloup Laubat ở Saigon và Dalat Lycee). Dân số Indochina lúc đó khoảng trên 17 triệu người.
Người Pháp ở Indochina cũng chia rẽ, có những người vẫn nặng đầu óc thực dân bóc lột, có những người có thiện cảm và tôn trọng dân bản xứ.
Một số ít thanh niên Cochinchina thuộc tầng lớp trên du học ở Pháp bắt đầu trở về. Kinh tế và xã hội ở phía nam hiện đại và cấp tiến hơn các vùng khác, do Sài Gòn trở thành thành phố thuộc Pháp từ sớm đến thời điểm này đã có khoảng 60 năm thuộc Pháp. Đã có những người Việt sinh ra và lớn lên trong bối cảnh kinh tế chính trị hoàn toàn Pháp thuộc. Gia đình họ giàu có, họ nhập quốc tịch Pháp và đi Pháp du học.
Đặc tính của mỗi dân tộc được quyết định bởi số đông trung bình (giới bình dân) của dân tộc ấy. Giới bình dân của Hoa Kỳ là những người trung lưu chăm chỉ và có tinh thần tự lập. Giới bình dân của nước ta cho đến những năm 1920 là những người nghèo khổ ở tầng đáy xã hội. Những người ở tầng lớp dưới về cơ bản là giống nhau, ít khác biệt. Tâm thức của họ không được sâu sắc lắm, nhận thức về xã hội không được mấy sáng sủa, mù mờ về chính trị, tình cảm nghèo nàn. Họ không bao giờ hiểu được những người tầng lớp trên, và khó chịu đựng được sự khác biệt. Những người ở tầng lớp trên, ngược lại, không hiểu được tình cảm, nhận thức và cả sức mạnh của tầng lớp dưới. Những người ở tầng lớp trên cũng đa dạng cá nhân, mỗi người mỗi kiếu và vì thế họ dễ chấp nhận sự khác biệt.
Năm 1917.   
Bùi Quang Chiêu sinh ra (1873) trong một gia đình bề thế, có quốc tịch Pháp.Về tuổi tác, Bùi Quang Chiêu trẻ hơn Phan Chu Trinh vài tuổi (còn Phan Chu Trinh trẻ hơn Phan Bội Châu vài tuổi). Lần đầu đi du học của Bùi Quang Chiêu rất sớm, ở Algerie, khoảng 1894. Lần thứ hai đi du học (ở trường Thuộc Địa ở Pháp?). Người ta cho rằng trong chuyến đi này, vào năm 1911, tay nhà giàu lớn tuổi đã gặp anh nhà nghèo trẻ tuổi Paul Thành trên cùng một chuyến tàu, ở hai địa vị khác nhau. Bùi Quang Chiêu đã tư vấn cho Paul Thành nộp đơn vào trường Thuộc Địa. Việc này sau đó đã xảy ra, nhưng đơn xin học của anh Thành đã bị từ chối. Sau đó Nguyễn Tất Thành đi Mỹ, đi Anh rồi đến Paris như đã nói ở trên.
Từ Pháp trở về với tấm bằng danh giá lúc bấy giờ là kỹ sư canh nông và mang trong đầu tư tưởng đấu tranh bất bạo động của Gandhi , Bùi Quang Chiêu làm việc cho chính quyền thuộc địa trong lĩnh vực nông nghiệp, từ đó xây dựng được các quan hệ với người Việt có tiềm năng làm doanh nhân và chính trị gia, là hai thứ rất mới mẻ và lạ lẫm với xã hội Việt lúc bấy giờ. Cùng thời với các phong trào đề cao giống nòi, chấn hưng dân tộc của hai ông Phan, Bùi Quang Chiêu đề ra phong trào đỏi hỏi các quyền lợi rất lạ lẫm với người Việt: quyền làm kinh tế, chống độc quyền kinh tế của người Hoa, quyền bỏ phiếu, quyền chính trị, vốn vẫn là quyền chỉ dành cho người Pháp da trắng. Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phú Khai sử dụng tờ báo được chính quyền Sarraut tài trợ, tờ La Tribune Indigène (1917) để phát biểu ý kiến của mình, nhưng luôn giữ cho tờ này ở vai trò phản biện, không vượt qua lằn ranh chống đối.
Bùi Quang Chiêu tổ chức các hoạt động tẩy chay hàng hóa của người Hoa, thành lập nhà máy xay gạo đầu tiên của người Việt ở Mỹ Tho để phá vỡ thế độc quyền ngành của người Hoa, mở ngân hàng đầu tiên của người Việt ở Sài Gòn. Mặt khác, do có quốc tịch Pháp, Bùi Quang Chiêu hoạt động chính trị ở “mẫu quốc” để đòi hỏi những quyền lợi cho Indochina, những quyền này cho đến tận ngày nay vẫn là các quyền dù quen tai về hình thức nhưng rất xa lạ về nội dung với xã hội: tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do báo chí.
Nhóm Lập Hiến (Constitutionalist) là một nhóm nhỏ (được cho là khoảng 30 thành viên) tập hợp quanh Bùi Quang Chiêu để đấu tranh chính trị. Đây là nhóm chính trị đầu tiên đấu tranh bất bạo động và công khai thông qua cải cách hiến pháp  để đòi hỏi quyền lợi chính trị và kinh tế cho người bản xứ. Một nhân vật bí ẩn tên là Diệp Văn Cương, được cho là thân cận với Bùi Quang Chiêu, đã soạn thảo đề xuất cải cách thể chế rất tiến bộ, từ cấp làng xã đến chính quyền trung ương, trong đó có việc tăng số ghế cho người bản xứ trong Hội đồng Thuộc địa và cải cách tư pháp bằng cách đặt ra chức thẩm phán hòa giải. Trong khoảng chục năm đấu tranh chính trị, bao gồm cả việc sử dụng hai cơ quan ngôn luận và của họ là La Tribune Indigène (Nguyễn Phú Khai) và L’Écho Annamite  (Nguyễn Phan Long) nhóm này đã đạt được kỳ tích khi chính phủ bảo hộ cho số người bản xứ được quyền bầu cử (cử chi đoàn) tăng từ 2 ngàn lên 20 ngàn (số liệu của Taylor), số thành viên người bản xứ ngồi trong Hội đồng Thuộc địa tăng lên 10 ghế, trong đó Nguyễn Phan Long giữ vị trí Phó Hội Đồng.
Trong thời gian 1917-1923 nhóm của Bùi Quang Chiêu đã phá băng môi trường chính trị ở thuộc địa, mở lối cho các phong trào chính trị của những du học sinh thế hệ sau trẻ hơn, biến Hội đồng Thuộc địa từ một định chế cai trị thành một định chế dân chủ hơn rất nhiều và biến các cơ quan báo chí được chính quyền thuộc địa tài trợ ngầm thành cơ quan phát ngôn cho chính kiến của mình. Nhóm Lập Hiến đi theo chủ nghĩa tinh hoa, không quan tâm đến giới bình dân và quyền lợi của họ, đồng thời va chạm quyền lợi với nhóm Pháp thực dân quen thói bóc lột, và không làm hài lòng các vị toàn quyền người Pháp vốn chủ trương cải cách giáo dục và văn hóa hơn là cải cách chính trị. Các xung đột này đều được “tranh đấu” bằng các phương thức văn minh hợp pháp, không sử dụng bạo lực. Ngay sau Cách Mạng Tháng Tám, Bùi Quang Chiêu lúc này đã hơn 70 tuổi đã bị Việt Minh bắt và giết cùng năm người con của mình, trong đó người con út chưa đầy 20 tuổi.
Năm 1922-1923.
Cải cách thể chế thành công năm (1922) cũng đúng vào lúc Nguyễn An Ninh, một thanh niên con nhà giàu lúc này 23 tuổi, tốt nghiệp Trường Luật ở Pháp quay về Sài Gòn và là thành viên cứng cựa của phong trào Jeune Annam (Thanh niên Annam) cùng với nhà hoạt động cánh tả người Pháp trẻ hơn một tuổi là André Malraul. Mười năm sau Malraul nổi danh với cuốn tiểu thuyết được giải Goncourt (1933), và sau Thế chiến 2 trở thành Bộ trưởng trong chính phủ Charles de Gaulle (1945).
Cũng thời gian này, một thanh niên khác, già hơn Nguyễn An Ninh khoảng 10 tuổi, và cùng là thành viên nhóm Ngũ Long với Phan Chu Trinh và Nguyễn An Ninh ở Paris, gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp rồi qua Nga (1922-1923). Tất nhiên đấy chính là Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1920-1929 ( ở Tonkin)
Ở Tonkin, một thanh niên khác , trẻ hơn Nguyễn An Ninh 2 tuổi, và không phải là du học sinh, tên là Nguyễn Thái Học, đã thành lập Đảng bí mật tên là Việt Nam Quốc Dân Đảng (1927) trên nền tảng của Nam Đồng Thư Xã. Theo nội dung trong sách của Hoàng Văn Đào, cuốn Việt Nam Quốc Dân Đảng,  thì có vẻ như  đảng này có ý thức hệ rất mơ hồ, vừa theo Tam Dân của Tôn Dật Tiên, vừa có mùi vị Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ai của Pháp; vừa học tập QDĐ của Tàu vừa chịu ảnh hưởng của Phan Bội Châu (có thời kỳ đảng này mời Phan Bội Châu làm chủ tịch danh dự). Về tổ chức Đảng này tự mày mò xây dựng theo chiều dọc: Tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, chi bộ. Tôn chỉ là sử dụng bạo lực lật đổ phong kiến và thực dân. Tổng bộ có nhiều ban, trong đó có ban ám sát. Ban ám sát năm 1929 đã giết một tay mộ phu đồn điền tên là Bazin, dẫn đến việc Đảng bị mật thám Pháp khủng bố tan nát khiến Nguyễn Thái Học phải quyết định khởi nghĩa non và sau đó là thất bại. Ban ám sát còn nhận nhiệm vụ giết những người trong Đảng mà bất đồng chính kiến với tổ chức, nhất là khi nhóm lãnh đạo Đảng bị phân hóa và phe ủng hộ đấu tranh bạo lực thắng phe ôn hòa. Nhân vật nổi bật của ban này là Ký Con. Kế hoạch hành động của Đảng cũng khá mạch lạc tuy còn ngây thơ do lãnh đạo đảng chủ yếu là các tay làm chính trị tự học tự làm. Họ chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu là tuyển mộ, đào tạo đảng viên, sau đó đấu tranh bạo động để lấy chính quyền. Giai đoạn sau là nắm chính quyền và thiết lập chính quyền quân sự, rồi chuyển qua huấn luyện chính trị (“huấn chính”) cho xã hội theo nguyên tắc “Dĩ Đảng Trị Quốc, và cuối cùng mới là  “hiến chính”  để xây dựng thể chế pháp quyền, xây dựng hiến pháp và tổ chức bầu cử theo phổ thông đầu phiếu.
VNQDĐ phát triển mạng lưới đảng viên khá nhanh ở cả ba kỳ. Nhưng có lẽ chất lượng Đảng viên không được tốt, kỷ luật Đảng hơi kiểu hội kín Tàu, cách hành xử khá thô bạo.  Trong sách của Hoàng Văn Đào kể khá nhiều chuyện ban ám sát đi giết những đảng viên bị coi là phản đảng. Cũng có kể chuyện bí thư trưởng của đảng là Vũ Hồng Khanh vì hiểu nhầm Đội Sửu vi phạm nguyên tắc đảng đã rút súng bắn chết Đội Sửu tại chỗ bất chấp Đội Sửu là tay gộc của đảng. Ở đây có một chi tiết thú vị nữa của lịch sử. Khi Quốc dân quân, quân đội của VNQDĐ bị Pháp và Việt Minh đánh, họ chạy qua Trung Quốc. Còn quân đội cộng sản của Đặng Tiểu Bình bị Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch đánh, họ chạy qua Cao Bằng. Nhưng đó là những năm sau này.
Sau vụ ám sát Bazin chưa đầy một năm, Nguyễn Thái Học khởi nghĩa Yên Bái (1930) và thất bại. Nguyễn Thái Học và các đồng chí bị xử bắn. Cô Bắc, Cô Giang thoát chết. Nhưng Cô Giang (Nguyễn Thị Giang) là người yêu của Nguyễn Thái Học đi về tận quê Nguyễn Thái Học, tháo đồng hồ tặng người em chồng tương lai, rồi ra đầu làng dùng khẩu súng người yêu tặng bắn vào đầu tự sát. Quốc Dân Đảng sau này sống lại chủ yếu nhờ các lãnh đạo đảng ở hải ngoại (chủ yếu là Tàu Tưởng) trở về nước tham gia hoạt động. Đồng thời kết hợp với Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh và dựa vào quân đội Tàu Tưởng của Lư Hán, Tiêu Văn.
Năm 1925-1928 (ở Cochinchina)
Trong lúc đó ở Sài Gòn, ngay sau khi về nước, Nguyễn An Ninh lập tức có các hoạt động xã hội. Theo Ho Tai Hue Tam, Nguyễn An Ninh chịu ảnh hưởng tư tưởng của Nietzche, Bergson, và Gide. Năm 1923 trên tờ báo Cloche Fêlée do chính mình xuất bản, Nguyễn An Ninh đã bộc lộ tư tưởng vô chính phủ nổi loạn của mình với bài viết mà tên của nó dịch ra tiếng Anh là “Order and Anarchy”. Cùng với các hoạt động diễn thuyết theo kiểu vô chính phủ “nihilist” từ nước Nga, Nguyễn An Ninh trở thành thần tượng của giới trẻ cấp tiến Sài Gòn, đặc biệt là các thành viên của trào lưu thanh niên cấp tiến Jeune Annam.
Khác với các tờ báo cùng chính kiến nhưng khác phe của Bùi Quang Chiêu, André Malraux (Indochine), Paul Monin (Vérité) thường đấu tranh với chính quyền thông qua đối thoại và phản biện, tờ báo của Nguyễn An Ninh kêu gọi thanh niên hành động chống chính quyền. Nguyễn An Ninh viết trên báo của mình: “Liberty is not to be begged for”. Khác với Bùi Quang Chiêu luôn gói gọn tất cả trong nhóm nhỏ theo chủ nghĩa tinh hoa (elitism) và coi thường quần chúng lao động, Nguyễn An Ninh tuy xuất thân ở tầng lớp trên nhưng lại đi vào giới bình dân của Indochina, tức là đi với nông dân, tiểu thương, giáo viên và đặc biệt là thanh niên, học sinh.  Thậm chí ông còn sử dụng cả lãnh đạo của thế giới ngầm cho các hoạt động của mình. Hình ảnh anh thanh niên nhà giàu du học ở Pháp về đi guốc mộc bán báo dạo trên đường phố Sài Gòn, hay đi xe đạp đền từng ngôi chùa ở ngoại thành để tuyên truyền đã cuốn hút người lao động.
Hơn thế, Nguyễn An Ninh có lẽ khá hào hứng với phong trào dân túy và thích thú với các mô hình hội kín kiểu Thiên Địa Hội của thế giới ngầm và cũng như các tôn giáo bình dân, nên đã có mối quan hệ đặc biệt với Cao Đài và âm thầm tuyển mộ người cho đảng kín: Thanh Niên Cao Vọng Đảng, hay còn được gọi là Đảng kín Nguyễn An Ninh.
Nguyễn An Ninh bị bắt đi tù bốn lần. Lần thứ tư thì chết trong tù. Về thực chất, Nguyễn An Ninh giống một tay hoạt động xã hội độc lập, không có ý thức hệ, không có sách lược cụ thể, không có phương pháp tổ chức đảng chính trị dù được quần chúng ủng hộ và sẵn sang đi theo. Có vẻ sau mỗi lần đi tù tư tưởng của Nguyễn An Ninh lại chuyển dần qua phía cộng sản.  Các thành viên của Thanh niên cao vọng đảng dần dần cũng chuyển hóa thành cộng sản đệ tam Stalinist: Võ Văn Ngân, Võ Văn Tần, Tô Ký. Một người khác không xuất thân từ giới bình dân là Phan Văn Hùm sau chuyển qua cộng sản đệ tứ Trotskist. Những người cộng sản đệ tứ ở Cochinchina, sau cách mạng tháng 8 bị Việt Minh giết. Nguyễn An Ninh chết ở Côn Đảo (1943), rất lâu sau này tự nhiên được phong liệt sỹ (1980).
Thời kỳ này ở Cochinchina không chỉ khai mở bầu không khí chính trị đa dạng mà còn đón nhận các ý tưởng tôn giáo mới. Đây có lẽ là thời kỳ rực rỡ nhất của một xã hội dân sự đúng nghĩa. Cao Đài hình thành (1926) ở vùng sống chung giữa người Việt và Khmer. Ngay sau khi ra đời, Cao Đài phát triển mạnh mẽ. Hoàng thân Cường Để ngầm ủng hộ Cao Đài và về sau này người Nhật dựa vào Cao Đài để kháng Pháp. Chính quyền thuộc địa sớm nhận ra mối đe dọa từ giáo phái này, bắt ngay giáo chủ Phạm Công Tắc cho đi đầy ở Madagascar và chiếm đóng  Tòa thánh Tây ninh.  Nhưng khi chiến tranh Pháp Việt nổ ra,Cao Đài tổ chức quân đội riêng và do khác biệt đường lối yêu nước và tín ngưỡng, Việt Minh đàn áp Cao Đài tàn nhẫn cho dù đạo này lúc này đã được quân đội Pháp yểm trợ. Sang thời Việt Nam Cộng Hòa, chế độ Diệm ra tay thịt thêm lần nữa, giáo chủ Phạm Công Tắc chết ở đất Cambodia.
Năm 1924-1927 (ở Quảng Châu)
Như vậy, cho đến thời điểm này chưa có một tổ chức chính trị nào đủ mạnh và đủ ảnh hưởng trên cả ba miền cũng như trên toàn cõi Đông Dương, mặc dù tất cả các đảng và hội đoàn dù ở hải ngoại hay trong nước đều đóng góp vào thay đổi rất mạnh mẽ bầu khí quyển chính trị ở thuộc địa và thay đổi nhận thức chính trị cho xã hội và người dân. Lý do chính là không đảng phái nào có đầy đủ hành trang: ý thức hệ để dựa trên đấy các lý luận hình thành ra sách lược hành động, và phương pháp tổ chức lực lượng.
Năm 1924 ngay sau Đại hội 5 của Quốc tế cộng sản (Comitern), Mikhail Brodin mang Nguyễn Ai Quốc qua Quảng Châu với vai trò thông dịch và tận dụng quan hệ của Nguyễn Ái Quốc để phát triển mạng lưới đảng ở Indochina và Siam (Thái Lan bây giờ). Lúc này Nguyễn Ái Quốc khoảng 34 tuổi.
Trong thời gian ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thiện dần các kỹ năng tranh luận, tuyên truyền và làm báo. Rất khác với Bùi Quang Chiêu và hơi giống với Nguyễn An Ninh, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng Paria (Người cùng khổ) để tuyên truyền vào lính thợ và công nhân Annam đang phục vụ mẫu quốc. Và như ở trên đã nói, họ dần dần quay về quê hương trong những năm 1920. Năm 1922-1924, do được đào tạo bài bản ở Đại học Phương Đông, Nguyễn Ái Quốc nắm vững lý luận dựa trên ý thức hệ Leninist và phương pháp đấu tranh của Stalin, và đặc biệt nhất là hiểu được tính quốc tế của phong trào cộng sản. Hơn thế nữa, Nguyễn Ái Quốc còn nắm vững các kỹ năng huấn luyện và tuyển dụng, xây dựng Đảng từ cấp cơ sở. Nhưng bắt đầu từ đâu?
Ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc gặp học giả Nguyễn Thượng Huyền, thư ký và đang dần thay Phan Bội Châu lãnh đạo Hội. Nguyễn Thượng Huyền tặng Nguyễn Ái Quốc trước tác “On Revolution” của mình. Chi tiết này và nội dung sau đây lấy từ “Radicalism and Origins of the Vietnamese Revolution” nên sẽ dịch từ bản tiếng Anh thay vì dùng nội dung gốc có thể bằng tiếng Hán hoặc chữ quốc ngữ. “On Revolution” có lẽ tên Việt là “Cách mạng luận”. Tranh luận nảy sinh  giữa học giả kiểu cũ là Nguyễn Thượng Huyền và tay cách mạng với tư tưởng mới mẻ từ nước Nga: Thế nào là Cách Mạng?.
Hoàn toàn khác với Nguyễn Thượng Huyền vốn cho rằng cách mạng bắt nguồn từ tận Lão Tử, hàm ý thay đổi mệnh trời (phế thiên tử), Nguyễn Ái Quốc bắt đầu các lập luận của mình từ sự khác biệt giữa Cải cách, Tiến hóa và Cách mạng. Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng phải là cái thay đổi hoàn toàn thể chế cũ (phong kiến) bằng một thể chế mới tiến bộ hơn. Nguyễn Ái Quốc đưa ra cho Nguyễn Thượng Huyền những câu hỏi khó: “Tại sao người Pháp đàn áp được người Việt? Tại sao nhân dân ta lại tăm tối? Tại sao chúng ta không phát động được cách mạng? Chúng ta phải làm gì?”.
Và đây là những câu hỏi cốt tử nhất mà Nguyễn Ái Quốc hỏi Nguyễn Thượng Huyền: “Ông đã viết 20 trang để thảo luận về cách mạng nhưng ông không nói ra được: cái gì phải làm trước khi cách mạng, cái gì phải làm trong cách mạng, và cái gì phải làm sau cách mạng”.
Từ đây với tên giả là Lý Thụy, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông  cùng với do Liêu Trọng Khải đệ tử của Tôn Trung Sơn.  Quan trọng hơn, Lý Thụy gặp Phan Bội Châu và nhận thấy Tâm Tâm Xã (hội những trái tim cùng nhịp đập), một tổ chức hậu sinh từ Việt Nam Quang Phục Hội của nhà cách mạng lão thành này, có những thành viên yêu nước tuyệt vời và rất …”kinship”. Lý Thụy đã tuyển dụng, huấn luyện và sử dụng những thành viên cốt cán đầu tiên này để thành lập Thanh niên cộng sản luên đoàn gồm 9 thành viên bao gồm cả các tên tuổi lớn sau này như Lê Hồng Phong. Trong 9 người này có Lâm Đức Thụ không phải dân Thanh Nghệ, và đây là người tham gia bán Phan Bội Châu cho mật thám Pháp, và Phan bị bắt cóc và đưa về Hà Nội và bị Hội đồng đề hình kết án.
Sử dụng Thanh Niên Cộng Sản Liên Đoàn làm hạt nhân, Lý Thụy mở rộng tổ chức qua các nhóm đối tượng rất cụ thể nhưng thống nhất về ý thức hệ cách mạng. Hội nhóm có tên “Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” được thành lập năm 1925 để làm cơ quan tuyển dụng thanh niên từ trong nước đi ra nước ngoài học tập rèn luyện làm cách mạng. Các lớp huấn luyện do Lý Thụy tổ chức, soạn giáo án, đứng lớp được tổ chức liên tục. Các khóa ngắn nhưng thực dụng. Học viên học xong được phân loại để cử qua Nga học tiếp ở đại học Phương Đông, hoặc gửi qua võ bị Hoàng Phố của Tưởng, hoặc gửi về hoạt động trong nước.  Báo Thanh Niên cũng được sinh ra để phục vụ tuyên truyền trong thời kỳ này. Các tên tuổi lớn  của ĐCS VN sau này đều xuất phát từ đây: Trần Phú, Phùng Chí Kiên, Nguyễn Sơn.
Các tài liệu giảng dạy được Nguyễn Ái Quốc tập hợp lại thành cuốn sách nổi tiếng Đường Kách Mệnh (Road to Revolution) xuất bản khoảng năm 1927.  Theo Ho Tai Hue Tam, trong cuốn sách này, Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết được vấn đề đoàn kết dân tộc mà Phan Bội Châu đã từng bó tay: phân loại giai cấp và đoàn kết giai cấp để chống Pháp. Các thuật ngữ quan trọng chủ nghĩa Marx-Lenin đều bị dịch qua chữ Hán và làm sai lệch nghĩa gốc. Ngay cả từ “cộng sản” cũng sai. Nguyễn Ái Quốc đã khéo léo sử dụng Công-Nông (giới công nhân và giới nông dân) để thay cho từ vô sản (wu chan) vốn dịch không sát nghĩa từ chữ proletariat của tiếng Nga. Từ đây quốc tế cộng sản bắt đầu nhìn nhận chính thức tiềm năng cách mạng của giới nông dân ở các nước thuộc địa.
Xã hội và con người Việt Nam vốn rất dễ bị chia rẽ mất đoàn kết. Nguyên nhân gây chia rẽ rất đa dạng, từ nguyên nhân địa lý  vùng miền, đến nguyên nhân tín ngưỡng, và đặc biệt và các nguyên nhân nặng tính cá nhân như hiềm khích, đố kị, ghen tị lẫn nhau. Trớ trêu thay, chính lý luận và phương pháp đấu tranh giai cấp lại làm con người ta đoàn kết. Tầng lớp dân này đấu tranh với tầng lớp dân kia, giới nọ đấu tranh với giới kia. Đấu tranh giữa đảng và các nhóm ngoài đảng. Đấu tranh trong đảng giữa các nhóm khác thành phần xã hội với nhau. Đấu tranh bằng lý luận và cả bảo lực. Chừng nào còn đấu tranh thì còn sức mạnh nội tại của đảng. Đỉnh cao của lý luận và thực tiễn đấu tranh chính là đấu tranh ý thức hệ mà kết quả là chiến thắng năm 1975. Ngay cả kẻ thù của thể chế cộng sản, là chính quyền Diệm Nhu, cũng nhận thấy lợi ích vượt bậc của biện pháp tranh đấu này, và họ đã tiến hành các cuộc đấu tranh chống phong kiến, phản thực dân và tố cộng rất thành công ở Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng phía kia còn cao tay hơn, họ đã dính một cú hồi mã thương từ miền bắc: đấu tranh tôn giáo. Thua cuộc tranh đấu chính trị -tôn giáo này đã làm anh em họ Ngô mất tất, kể cả mạng sống của mình.
Từ những năm 1927 các hạt nhân của Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí hội trở về trong nước gặp khó khăn trong khâu tuyển dụng do bị cạnh tranh khốc liệt giữa các hệ phái khác nhau, và Đảng cạnh tranh mạnh nhất với họ chính là Việt nam Quốc dân Đảng.
Bản thân các hệ phái của ĐCS cũng tranh đấu với nhau về ý thức hệ và đường lối xem ai đúng hơn ai, ai chính thống hơn ai, ai đạo đức hơn ai. Vụ án tình ái phố Barbier năm 1928 xuất phát từ việc các cán bộ đảng là nam giới chăm chỉ hoạt động mà quên tình cảm cá nhân bỗng một hôm tranh nhau nữ cảm tình viên quyến rũ mà dẫn đến đấu tố nội bộ dẫn đến phán quyết cuối cùng là một người sẽ phải chết. Cảnh sát Pháp khi điều tra đã phát hiện ra đây không chỉ là một vụ giết người vì tình mà còn là hoạt động thanh trừng của một nhánh cộng sản hoạt động ở Sài Gòn nên đã bắt nhốt hết cả đám vào tù. Một trong những người tham gia vụ án tình ái ấy là Tôn Đức Thắng, khoảng 40 tuổi và già hơn hẳn các đảng viên khác, bị kết án và đầy ra Côn Đảo. Sau đó một năm, Phạm Văn Đồng lúc này hơn 30 tuổi cũng bị kết án và đầy ra Côn Đảo. Hoạt động của Thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Cochinchina tan nát hẳn.
Ở chỗ này lịch sử lại có chút nghịch ngợm. Vụ án phố Barbier năm 1928 làm suy yếu chi nhánh của Thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Cochinchina, mở đường cho nhóm trí thức đi theo hướng “tả đối lập” như  họ tự gọi từ Pháp trở về năm 1931. Nhóm cộng sản đệ tứTroskist này đã thành công nhờ đấu tranh công khai và trở thành nhóm chính trị chủ đạo ở miền nam và trúng cử một loạt vào Hội đồng thuộc địa năm 1935. Cái giá phải trả của nhóm này là Tạ Thu Thâu và Phan Văn Hùm đều bị Việt Minh làm thịt ngay sau Cách Mạng Tháng 8. Thế nhưng nguyên nhân tổ chức phải tan nát vì gái của vụ Barbier hằn sâu vào tiềm thức của những người hoạt động cách mạng. Đây có lẽ là nguyên nhân dẫn đến tội “hủ hóa” của cán bộ cộng sản là một tội được coi là nguy hiểm ngang với tội phản bội đảng. Các cán bộ nữ khô khan và kiên định tự nhiên được ưu ái hơn hẳn các cán bộ nữ ướt át chân dài.
Năm 1930.
Ở Cochinchina hoạt động của Thanh niên cách mạng đồng chí hội tan nát, nhưng ở Tonkin cũng không khá hơn mấy do sau vụ Nguyễn Thái Học, mật thám Pháp đàn áp dữ dội các đảng phái yêu nước ở phía bắc. Dẫn đến cho chi nhánh của cộng sản ở bắc Annam (bắc trung bộ) và hàng loạt đảng phái thân Nhật tự nhiên mạnh hẳn lên. Nhánh cộng sản ở Annam chính là Đông dương cộng sản liên đoàn, một trong ba nhóm tham gia sáng lập ĐCS Việt Nam. Bản thân Đông dương cộng sản liên đoàn là một hệ phái chịu ảnh hưởng của Đường Kách Mệnh và tách ra từ Tân Việt Cách Mạng Đảng (1929).
Việt Nam Cộng Sản Đảng chính thức ra đời ở phố Quan Công, Hồng Công. Một thời gian ngắn sau đảng đổi tên thành Đông Dương Cộng Sản Đảng.
Ở phía bắc, Hoàng Văn Thụ rất vất vả bảo vệ và tái dựng các cơ sở đảng bị Pháp phá vỡ. Năm 1940, Hoàng văn Thụ lúc này là ngôi sao sáng, cử Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng (ra khỏi tù Con Đảo năm 1936) qua Trung Quốc. Ở đây hai người bạn học này gặp Nguyễn Ái Quốc, lúc này đã dùng tên Hồ Chí Minh, ở Côn Minh.
Thử thách lớn nhất với những người cộng sản thời gian 1930-1940 này chính là nhà tù của Pháp mà ngay cả ở trong đó họ vẫn phát triển tổ chức lớn mạnh và tiếp tục đương đầu với chính quyền thực dân. Sự kiên cường của các đảng viên cộng sản và sức mạnh đoàn kết của đảng này đã làm nhiều đảng viên cốt cán của đảng khác ngưỡng mộ và đào ngũ để ra nhập tổ chức cộng sản, trong đó có các đảng viên ưu tú nhất của Tân Việt Cách Mạng Đảng.
Trong những năm này Nhật lặng lẽ yểm trợ cả Cao Đài và Hòa Hảo. Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ phật giáo Hòa Hảo, sau chuyển mình thành tổ chức có vũ trang được hiến binh Nhật cứu khỏi tay mật thám Pháp nhưng sau này không thoát khỏi tay Việt Minh.  Cùng với thế chiến thứ hai và sức mạnh của đế quốc Nhật, chủ nghĩa quốc gia cánh hữu bắt đầu hình thành ở Indochina với các ý tưởng kết hợp cả duy vật biện chứng lẫn dân chủ nghị viện. Họ sử dụng các ý thức hệ khá mơ mồ nhưng hấp dẫn được trí thức đô thị. Các tư tưởng này hay có tên liên quan đến ý tưởng “hỗ tương” và “duy tâm trung vật”.
Hàng loạt đảng phái thân Nhật xuất hiện với tên đầu thường có chữ Đại Việt. Đại Việt Quốc Xã Đảng ở Hải phòng, Hà Nội. Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh rất mạnh trong sinh viên của Đại học Hà Nội (Đông Dương Học Xá) và xây dựng được chiến khu ở Bắc Giang. Đại Việt Duy Dân Đảng của các thành viên xuất thân từ Tự Lực Văn Đoàn. Đại Việt Dân Chính của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Ngô Đình Diệm có Đại Việt Phục Hưng trong đó có Ngô Đình Khôi làm lãnh đạo ở Huế.
Các đảng này, sau có nhóm kết hợp với quốc dân đảng (nhóm của Trương Tử Anh, Nguyễn Tường Tam), có các nhóm kết hợp với nhau thành Đại Việt Quốc Gia Liên Minh. Nhóm của Trương Tử Anh hỗ trợ rất đắc lực cho việc hình thành chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên sau khi họ đảo chính Pháp. Sau Cách mạng tháng 8, Trương Tử Anh và Ngô Đình Khôi đều bị Việt Minh tảo thanh. Đảng Đại Việt về sau rất nổi ở Việt Nam Cộng Hòa nhưng bị chính quyền Ngô Đình Diệm dùng quân đội đàn áp tan nát ở ngay chiến khu của họ (chiến khu Ba Lòng).
Năm 1939-1940 nhiều người thuộc phe Đại Việt ở miền trung đã theo Cường Để trốn qua Tàu tham gia Kiến Quốc Quân.
Năm 1940.
Kiến Quốc Quân theo Nhật đi qua ngả Đồng Đăng đánh thành Lạng Sơn và là phần bắt đầu của bài viết dài phát mệt này.
Bonus
Ngày 7.30.1787 Thomas Jefferson viết thư cho William Drayton:
“The dry rice of Cochin-China has the reputation of being whitest to the eye, best flavored to the taste, and most productive. It seems then to unite the good qualities of both the others [white S. Carolina rice & brown Piedmont/Lombardy rice] known to us. Could it supplant them, it would be a great happiness, as it would enable us to get rid of those ponds of stagnant water so fatal to human health and life.”
“I have considerable of receiving of some dry rice from Cochin-China, the young prince of that country, lately gone from hence, having undertaken that it shall come to me”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chủ đề

Góp Nhặt

Blog Anh

Lưu trữ Blog