Nguyễn Mạnh Trinh
Một cuốn sách mới về lịch sử chiến tranh Việt Nam của một nữ giáo sư
sử học Hoa kỳ gốc Việt Nam xuất bản trong năm vừa qua đã đoạt giải
thưởng Edward M. Coffman năm 2012. Tác phẩm ”Hanoi’s War: An International History of the War for Peace in Việt Nam” và tác giả Nguyễn Thị Liên Hằng.
Giải
Edward M. Coffman là một giải thưởng hàng năm về sử học của The Society
for Military History cho những tác phẩm đầu tay của những tác gỉa trong
nội dung hòa hợp được những vấn đề liên quan với xã hội, chính trị,
kinh tế, và lịch sử ngoại giao. Giải thưởng được lấy tên của một
Professor Emeritus của đại học University of Wisconsin – Madison, Edward
M. Coffman, một quân sử gia nổi tiếng của Hoa Kỳ.
Nguyễn
Thị Liên Hằng là giáo sư sử học của đại học University of Kentucky, tốt
nghiệp Ph. D. tai đại học Yale và đã được nhiều fellow ship trong đó có
fellow – ship Fubright về Việt Nam khảo cứu trong hai năm 2001 và
2002. Cô di tản khỏi Việt Nam khi mới vừa 5 tháng tuổi và trong giờ chót
thứ 25 của thành phố Sài Gòn trước khi bị thất thủ.
Cô là giáo sư dạy về lịch sử bang giao quốc tế của Hoa Kỳ đặc biệt
là chú trọng vào vùng Đông nam Á, nhất là thời kỳ chiến tranh lạnh, tác
phẩn Hanoi’s War là tác phẩm đầu tiên. Tác phẩm thứ hai đang viết với
những khám phá về hệ thống quốc tế của phong trào phản chiến trong thời
kỳ chiến tranh cũng như vai trò và vị trí của những khuôn mặt nổi bật
của một thời ngoại giao với những tài liệu khảo sát từ văn khố Hoa Kỳ và
các nước Âu Châu.
Chiến tranh Việt Nam chiếm một phần quan trọng trong quân sử Hoa kỳ.
Một cuộc chiến với nhiều bí ẩn và từ từ được lộ ra từ những văn kiện bí
mật của văn khố các quốc gia liên quan đến cuộc chiến. Hàng trăm cuốn
sách phân tích về cuôc chiến này với nhiều khuynh hướng đặt trong bối
cảnh của quan điểm chính trị riêng biệt. Trong khi hầu như là hầu hết
các sử gia nghiên cứu về chiến tranh Việt nam đều chú trọng vào nguyên
ủy sự can thiệp của Hoa Kỳ và Mỹ hóa những xung đột tạo ra, Nguyễn Thị
Liên Hằng lại chú ý trước tiên đến những quan hệ quốc tế mà các nhà lãnh
đạo Bắc Việt theo đuổi cuộc chiến và Hoa kỳ đã can thiệp vào sau đó.
Những chuyện kể đầy tính xác định đã dẫn dắt độc giả đi từ nơi chốn đầy
bùn sình của đồng bằng sông Cửu Long đến nơi chốn đã bị bom đạn tàn phá
của bình nguyên sông Hồng, từ những hành lang đầy quyền lực ở Hà Nội và
từ Sài Gòn đến dinh Bạch ốc của tổng thống Richard Nixon, và từ nơi hòa
hội ở Paris đến những hội nghị cao cấp ở Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh, tất cả
những khám phá cho thấy hòa bình không có một chút hy vọng nào ở Việt
Nam. Trên bình diện quốc tế, những siêu cường đã có ảnh hưởng rất lớn
đến chiên tranh và hòa bình ở Việt Nam.
“Chiến
tranh của Hà Nội” đã tỏ lộ ra rất hiển nhiên những vận động không chính
thức với những người được coi là kẻ thù trong Thời kỳ chiến tranh lạnh
và biểu hiện rằng cuôc chiến đấu trong bàn hội nghị để tìm kiếm hòa bình
cũng ngập máu và chiều rộng có mực độ lớn hơn điều được tiên liệu. Dùng
những tài liệu văn khố mà từ trước tới nay chưa được hé lộ của Bộ Ngoại
Giao Việt Nam sau thời kỳ đổi mới và cùng với những tài liệu từ văn khố
các quốc gia khác có liên quan đến chiến tranh Việt Nam trên cả thế
giới, tác giả Nguyễn Thị Liên Hằng đã bộc lộ ra một chính sách chiến
tranh của Bắc Việt: gây ra chiến tranh và tạo dựng hòa bình, không những
của nhà cầm quyền Bắc Việt mà còn cả của chính phủ Nam Việt Nam, Nga Xô
Viết, Trung Quốc và Hoa Kỳ để tạo thành một bối cảnh toàn diện của cuộc
chiến ở mức độ thế giới.
Tác giả đã viết Hanoi’s War như một cách thế để đập tan các huyền
thoại về Việt Nam: ”Trong nhiều vấn đề rút ra từ những bài học ở Việt
Nam và áp dụng vào Afganistan, đó là lịch sử của chiến tranh Việt Nam
thường bị hiểu lầm hoàn toàn. Lịch sử của cuộc chiến này liên tục thay
đổi khi có bằng chứng mới xuất hiện, đặc biệt từ phía bên kia. Do không
chú ý nhiều về việc tìm hiểu động cơ của kẻ thù, các động lực bên trong
và các mối quan hệ đối ngoại, chúng ta luôn có một hình ảnh không đầy đủ
và thiếu chính xác về cuộc chiến tranh đó.
Người ta thường tin rằng miền Bắc Việt quyết định đi đến chiến tranh
trong năm 1959-1960 là để cứu cuộc nổi dậy ở miền Nam khỏi bị diệt trừ
và đảng Cộng sản có được sự ủng hộ không mệt mỏi của người dân Việt Nam
cho đến khi chiến tranh kết thúc năm 1975. Nhưng bằng chứng gần đây tiết
lộ rằng quyết định của đảng đi đến chiến tranh ở miền Nam Việt Nam có
một mối liên hệ mật thiết với các vấn đề ở trong nước. Chiến tranh cách
mạng là một cách hiệu quả để đánh lạc hướng sự chú ý về các vấn đề trong
nước, gồm một chiến dịch cải cách ruộng đất tàn phá, một phong trào trí
thức bất đồng ý kiến và một kế hoạch của chính phủ không thành công để
chuyển đổi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Một
trong những quan niệm sai lầm nhất của cuộc chiến Việt nam là ông Hồ
Chí Minh là nhà lãnh đạo lỗi lạc của Bắc Việt. Thực tế ông chỉ là bù
nhìn, trong khi Lê Duẩn, một người đứng bên lề lịch sử, lại là một kiến
trúc sư, nhà chiến lược chính và là chỉ huy trưởng của nỗ lực chiến
tranh của Bắc Việt. Ông Duẩn nghiêm khắc, không ồn ào, xa lánh sự chú ý,
nhưng ông có ý chí sắt đá, có kỹ năng quản trị và tập trung sự cần
thiết để thống trị đảng Cộng sản.
Cùng với một nhân vật là cánh tay phải của mình, ông Lê Đức Thọ được
coi như là một nhà ngoại giao cứng rắn bất khuất, người mà sau này đấu
khẩu với Henry A. Kissinger trong các cuộc đàm phán hòa bình Paris, ông
Duẩn xây dựng một đế chế quân phiệt vững chắc, vẫn còn chi phối Hà Nội
đến ngày nay. Các chính sách hiếu chiến của họ đã dẫn dắt Bắc Việt vào
cuộc chiến chống lại chế độ Sài Gòn và sau đó là Washing ton D. C. , với
bảo đảm rằng một nền hòa bình được thỏa thuận sẽ không bao giờ thay thế
thắng lợi hoàn toàn. Ông Duẩn thống trị đảng với một bàn tay sắt và xem
ông Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người nổi tiếng với việc
đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ, là mối đe dọa lớn nhất đối với quyền hành
của ông ta. Ông ta loại bỏ ông Hồ, tướng Giáp và những người ủng hộ họ
khi quyết định gần như hầu hết các quyết định quan trọng…”
Trong phần đầu, tác giả kể lại cuộc chia tay giữa hai nhân vật trọng
yếu của cuộc chiến Việt Nam là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ vào năm 1955 bên
dòng sông Ông Đốc ở Cà Mau. Lê Duẩn thì ở lại miền Nam và Lê Đức Thọ
xuống tàu Liên Xô tập kết ra Bắc nhưng để rồi trong ít năm sau kéo dài
đến tàn cuộc, hai người đã cùng nhau lãnh đạo cuộc chiến và là một chìa
khóa chính yếu để giải quyết chiến tranh. Thời điểm năm 1955 vẫn còn
trong hạn định mà hòa ước Genève cho phép tự do lựa chọn nơi cư trú của
cư dân hai miền. Trong lúc ở lại miền Nam, Lê Duẩn lập ra Trung Ương Cục
miền Nam với những người đứng đầu như Phạm Hùng, Nguyễn văn Linh, Võ
Văn Kiệt sẽ lãnh đạo cuộc chiến trong tương lai. Trở lại Hà Nội, Lê Duẩn
quyết định phải thống nhất đất nước bằng võ lực và tiến hành những nỗ
lực sửa soạn cho chiến tranh. Nghị quyết 15 của đảng Lao Đông Việt nam (
tức đảng Công sản VN) đã xác định rõ mục tiêu này.
Chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” được xử dụng và tất cả những người bất
đồng ý kiến với chủ trương trên bị thanh trừng triệt hạ. Hàng chục ngàn
người kể cả những người có công trạng hoặc nổi tiếng bị bắt giam, tra
tấn do một chế độ công an trị thi hành. Những tướng tá và nhân vật thân
cận với tướng Võ Nguyên Giáp bị giam cầm, bị khai trừ khỏi đảng và nhiều
khi bị thanh toán với những cái chết đầy bí ẩn. Do đó, luận cứ cho rằng
tất cả đảng Cộng sản một lòng đoàn kết trong chiến tranh là một luận cứ
không tưởng chẳng có một chút nào trong sự thực. Sự đoàn kết chỉ có
trong tuyên truyền và chế độ Cộng sản do Lê Duẫn lãnh đạo đã dùng sự
khủng bố để đàn áp và bắt buộc mọi người phải tuân theo bằng bạo lực.
Tác giả Nguyễn Thị Liên Hằng viết “Hanoi’s War: An International
History of the War for Peace in Việt nam” (Chiến tranh của Hà Nội: lịch
sử quốc tế của cuộc chiến cho hòa bình ở Việt Nam) với chủ đích từ những
tài liệu văn kiện mới để có nhận định làm sáng tỏ hơn lịch sử của cuộc
chiến đã có quá nhiều hỏa mù che phủ từ những nhận định đầy tính chủ
quan của những người phân tích. Những tài liệu văn kiện mới mà tác giả
đã xử dụng được trong tác phẩm là tài liệu văn khố của bộ Ngoại Giao của
chế độ Việt Nam Cộng sản ở Hà Nội. Trả lời tại sao lại có được may mắn
xử dụng những tài liệu trên, tác giả trong cuộc phỏng vấn nói:
“Tôi có mặt đúng chỗ đúng lúc. Khi tôi bắt đầu cuộc nghiên cứu trong
những năm cuối của thập niên 1990 về cơ bản lúc đó cả văn khố chủ yếu
của Việt Nam là văn khố của đảng Cộng sản, văn khố của quân đội của bộ
Quốc Phòng, văn khố của bộ Ngoại Giao đều cấm không cho các học giả được
tham khảo, dù là người Việt Nam hay ngoại quốc. Chỉ có các giới chức
làm việc trong các bộ liên hệ mới được tham khảo tài liệu. Nhưng tới
những năm 2000 thì đã có một số thay đổi về chính sách đối với người
Việt ở hải ngoại. Việt Nam mở cửa rộng hơn để đón các học gỉa từ các
cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Họ muốn thu hút Việt kiều và tôi đã
nắm ngay lấy cơ hội”.
Có nhiều người rất ngạc nhiên vì xử dụng được những tài liệu trong
văn khố thuộc hàng tối mật không phải là chuyện dễ dàng mà bất cứ ai
cũng có thể thực hiện được. Tác giả đã giải thích là có sựthuận lợi bởi
vì giới hữu trách Việt Nam coi thường công trình và khả năng của một sử
gia trẻ tuổi người Việt Nam lớn lên và sinh sống ở hải ngoại. Họ nghĩ,
với một đề tài có nhiều chất thách đố như chiến tranh Việt Nam có lẽ
không thích hợp với một ngườithuộc nữ giới…
Sử gia George C. Herring, tác giả của America’s Longest War, The
United States in Việt nam” đã nhận xét: ”Xử dụng những tài liệu mới mẻ
và quan trọng của những văn khố từ khắp thế giới, mà phần đông là từ
Việt Nam, Nguyễn Liên Hằng đã viết và tạo dựng được những điểm son đầu
tiên và xác thực của cuộc hòa đàm đã dẫn dắt đến Nghị Hội Paris. Tác
phẩm Hanoi’s War là một công trình đặc sắc, là những viên gạch xây dựng
không thể bỏ qua cho sự thay đổi tức thì của lịch sử của những xung đột ở
Việt Nam”.
Tác gỉa đã phỏng vấn nhiều nhân vật Việt Nam ở cả hai phe như Bùi
Diễm, Bùi Tín, Hoàng Minh Chính, Hữu Ngọc, Lưu Doan Huỳnh, Lưu Văn Lợi,
Nguyễn Đình Ước, Nguyễn Khắc Huỳnh, Nguyễn Ngọc Dung, Trần Thị Liên… để
có thể xác định rõ ràng hơn tính chính xác của các tài liệu văn bản đã
xử dụng trong văn khố. Căn bản của cuốn sách là những tìm kiếm sưu khảo
từ hàng ngàn tài liệu, công điện, sách báo và những phần thu thanh ghi
lại những cuộc phỏng vấn hàng trăm người có liên hệ đến cuộc chiến, phải
nói là một dẫn chứng đồ sộ có nhiều tính thuyết phục.
”Hanoi’s War” gồm 4 phần chia ra làm 8 chương với nội dung:
Phần
1 là Con đường của cuộc chiến tranh cách mạng: Lê Duẩn nắm quyền lực và
chỉ đạo cuộc chiến cũng như hoạch định chính sách ngoại giao trong thời
gian chiến tranh;
Phần 2: phá vỡ những huyền thoại cũ và nêu lên cuộc chiến tại Hà Nội
tranh dành quyền lực mà rõ rệt nhất là trong thời kỳ Tổng Công Kích tết
Mậu Thân và thời kỳ của Hội nghị hòa bình Paris và cả thời gian sau đó;
Phần 3: Theo đuổi bản hòa âm chiến thắng với những hoạt cảnh từ
chiến trường đến bàn hội nghị cũng như cách thế vừa đánh vừa đàm của chế
độ Hà Nội;
Phần
4 : tạo thành một nền hòa bình què quặt với những nỗ lực chống lại
khuynh hướng chủ hòa trong nội bộ cũng như việc thúc đẩy cường độ chiến
tranh để mưu tìm một hòa bình của kẻ chiến thắng.
Nhân vật chính của “Hanoi’s War” và nhân vật chủ chốt là Lê Duẩn.
Ông ta đã áp lực để làm cho Hồ Chí Minh phải ngưng lại ý kiến không muốn
thực hiện leo thang chiến tranh vào những năm 1963-1964 để tìm một
chiến thắng nhanh chóng trước khi Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp bằng quân
sự vào Việt Nam. Năm 1967- 1968 ở Bắc Việt đã có một cuộc thanh trừng
với quy mô lớn nhằm vào những người phản đối chính sách của Lê Duẩn nhắm
vào ông Hồ, tướng Giáp và những người thân cận chống lại kế hoạch Tổng
công Kích tết Mậu Thân.
Mặc dù cuộc chiến ở miền Nam lúc đầu đã tập họp được nhiều người
miền Bắc để hỗ trợ Đảng nhưng nó nhanh chóng trở thành một vũng lầy. Ông
Duẩn và ông Thọ phản ứng bằng cách gán cho những người phản đối phương
cách điều hành chiến tranh tội phản quốc. Bằng cách tăng quyền hạn của
lưc lượng an ninh nội bộ và an ninh tư tưởng, và Hà Nội chinh phục cuộc
chiến ở miền Nam với chiêu bài yêu nước, Lê Duẩn đã có thể tiến hành một
cuộc chiến tổng lực theo như đã hoạch định cho đến năm chấm dứt chiến
tranh năm 1975.
Hai nước lớn trong phe Cộng sản là Trung Quốc và Liên Xô có những
bất đồng sâu sắc cũng gây ra nhiều ảnh hưởng trong cuộc điều hành chiến
tranh của Lê Duẩn. Chính sách đu dây lúc đầu ngả theo Trung Quốc để tiến
tới một cuộc chiến tranh tổng lực và toàn diện nhưng lúc về sau khi
quân đội Mỹ tham chiến trực tiếp thì viện trợ của Liên Xô đổ vào Bắc
Việt. Năm 1968, sự tranh dành ảnh hưởng giữa hai nước này đã ở mức căng
thẳng tột độ. Lê Duẩn tung ra hai chiến dịch:
Tổng Công Kích tết Mậu Thân và chiến dịch Xuân Hè năm 1972 mà cả hai
Trung Quốc và Liên Xô không chấp thuận. Năm 1972, tổng thống Richard
Nixon đi thăm Trung Quốc và Liên Xô nên cả hai nước gây áp lực để làm
giảm bớt cường độ của trận chiến và kết thúc dựa trên các điều khoản của
Nixon khi họ tranh dành nhau những ân huệ của Washington. Lê Duẩn phát
động hai chiến dịch đẫm máu kể trên như một đòn tấn công chí mạng vào
việc giảm bớt căng thẳng giữa Hoa Kỳ và hai ngước Cộng sản đàn anh này.
Tác giả ”Hanoi’s War” cũng cho rằng chính Hoa Kỳ tự đánh bại mình
trong cuộc chiến tranh Việt Nam là một huyền thoại. Bắc Việt đã chủ ý
gây chiến tranh và định hình được các hành động của Hoa Kỳ ở Việt Nam
cũng như trật tự cuộc chiến tranh lạnh trên thế giới. Chính Lê Duẩn đã
dồn hết toàn lực cho chiến thắng trong năm 1964 khiến Hoa kỳ bị thúc đẩy
can thiệp trực tiếp vào chiến tranh. Không phải Bắc Việt là một đối thủ
thụ động mà chính họ đã gây ra cuộc chiến với sự chấp nhân hy sinh mọi
thứ để đạt được chiến thắng.
Vai trò của Hoa Kỳ và đồng minh là Nam Việt Nam đôi khi lỏng lẻo và
mỗi phe vì lợi ích riêng của mình nên có những hành động trái ngược nhau
và bất lợi cho liên minh Washington DC – Sài Gòn. Làm chậm việc rút
quân Mỹ trong năm 1969 và phá tan các cuộc đàm phán hòa bình giữa ngoại
trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger và Lê Đức Thọ năm 1972-1973, các nhà lãnh
đạo miền Nam Việt Nam đã làm cho việc Mỹ rút khỏi Đông Nam Á phức tạp
hơn nhiều. Mặc dù Washington DC có những lý do riêng về địa điểm chiến
lược và nội bộ để can thiệp và ở lại Việt nam nhưng các nhà lãnh đạo hai
phe Bắc và Nam Việt Nam đã chi phối tính chất và tốc độ can thiệp của
Hoa Kỳ.
Hanoi’s War là một cách nhìn lịch sử mới dựa trên những tài
liệuthu thập được từ văn khố của Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng sản. Trách
nhiệm của cuộc chiến tổn hại trên 2 triệu sinh mạng người Việt là trách
nhiệm của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ với chủ trương hiếu chiến không chấp
nhận sống chung hòa bình với những người quốc gia. Giải pháp hòa bình
bằng thương thuyết cũng bị gạt bỏ và chủ trương trung lập chế cũng bị
phê phán. Chủ trương duy ý chí này của Lê Duẩn cũng đã gây ra hai cuộc
chiến tiếp theo sau năm 1975 với Trung Quốc năm 1979 và với Khờ me Đỏ
năm 1980. Và cũng với đường lối ngoại giao cứng rắn nên Việt Nam bị cả
thế giới cô lập tạo nên một thời kỳ tệ mạt nhất trong cả lịch sử dân
tộc.
Nguyễn Mạnh Trinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét