Ngũ Phương
Tôi có hai người bạn, một không thích dùng chữ Hán-Việt, một lại rất
thích thú và giỏi chữ Hán-Việt. Tôi gọi người không thích là “Anti-HV”,
còn người kia là “Pro-HV”.
Anti-HV không thích chữ Hán-Việt tới mức hễ cứ đụng tới chữ Hán-Việt
là anh ta lại loay hoay dịch nó ra chữ thuần Việt cho bằng được. Như có
một lần tôi dùng chữ “thậm chí” trong câu “Công an lấy đất của dân, thậm chí
người có công với cách mạng…” Thế là Anti-HV gạch đánh xoẹt chữ thậm
chí, bảo tại sao không viết cho dễ hiểu hơn như: “Công an lấy đất của
dân, ngay cả người có công với cách mạng”.
Tôi trả lời rằng “ngay cả” không sai nhưng nghe không mạnh bằng “thậm
chí”. Chữ “thậm” dấu nặng nên nghe như cái búa của ông quan tòa giáng
xuống một cái đùng, nghe đanh thép hơn chứ. Anti-HV nhất định không chịu
thua, bảo mình có tiếng mình thì dùng, mắc gì dùng chữ người. Tôi cười
xòa, không cãi nữa nhưng tự nhủ cái bệnh dị ứng chữ Hán-Việt của gã này
đã đến độ… “thậm (cấp) chí nguy”.
Mà cái sự ở đời nó lạ lắm, khi mình ghét cái gì thì mình sẽ lại chú ý
tới cái đó hơn, hơn cả những cái mình ưa thích nữa, nên Anti-HV từ khi
treo bảng “Nói Không với chữ Hán-Việt” thì đâm ra phải tìm hiểu chữ
Hán-Việt tỉ mỉ hơn để hòng cãi lại người thường dùng chữ Hán-Việt là
tôi.
Lần khác, tôi viết chữ “bao tử”, Anti-HV không chịu, bảo phải gọi là
“dạ dày” vì chữ “bao tử” có chữ “bao” nghĩa là “bọc” và chử “tử” nghĩa
là “con”, vậy “bao tử” nghĩa là “bọc lấy con”. Anti-HV còn bảo rằng chữ
“bao tử” vẫn được dùng để chỉ động vật còn là thai trong bụng mẹ như
“heo bao tử” hoặc trái cây còn rất non như “mướp bao tử”. Kết luận, “bao
tử” đúng ra phải là “dạ con”. Tôi bèn vào tự điển tìm, chỉ thấy chữ
“vị” là chữ Hán-Việt chỉ dạ dày, như trong câu “ăn cháo nấm hương để bổ
tỳ vị” (lá lách, dạ dày) mà thôi, không thấy chữ “bao tử”.
Tôi đuối lý nhưng cố vớt vát, cãi rằng người mình quen dùng chữ “bao
tử” rồi, dù có sai cũng rất khó sửa lại, như chữ “cải lương” trước kia
vẫn được dùng với nghĩa tốt là “thay đổi [cải] cho tốt hơn [lương]”, thế
nên mới có bộ môn nghệ thuật hát Cải Lương, nhưng bây giờ thì ai cũng
dùng chữ “cải lương” với ý chê bai là “(ăn mặc) lòe loẹt sặc sỡ (như đào
kép hát Cải Lương)”. Bây giờ có ai dám dùng chữ “cải lương” theo nghĩa
ban đầu nữa hay không? Cũng thế, “dạ dày” là “bao tử”, còn “dạ con” là
“tử cung”, xài lẫn lộn thiên hạ lại bảo rằng mình hâm.
Gần đây nhất, tôi dùng chữ “vô song” trong câu “sức mạnh vô song”,
thế là người yêng hùng chống (giặc) Hán hùng dũng diệt ngay chữ “vô
song” tội nghiệp của tôi để thành “sức mạnh không hai”. Tôi đọc lại,
cười muốn té ghế. Vừa phải thôi, “vô song” mà đổi thành “không hai” thì
nghe có khác gì “máy bay trực thăng” thành “máy bay lên thẳng”. Nhưng
Anti-HV cứ cãi, cho rằng “vô” là không, “song” là hai (như “song sinh”
là hai đứa bé cùng sinh ra), vậy “vô song” là “không hai” chứ gì nữa.
Tôi thuộc loại chữ Việt chưa đầy lá mít, chữ Hán-Việt chưa đủ lá me
nhưng nhất định không chấp nhận cái “zero two” này, bởi lẽ, “vô song” đi
kèm với chữ “sức mạnh” chỉ có nghĩa bóng là “mạnh ghê lắm” chứ không
theo nghĩa đen là “không ai sánh bằng”. Ngoài ra người ta thường nói “Có
một–Không hai” để dịch câu “Độc nhất–Vô nhị”, nếu như dùng chữ “không
hai” cụt ngủn thì thế nào người đọc cũng bảo người viết dốt thành ngữ.
Kể ra lỳ lợm như Anti-HV cũng là “có một, không hai”. Thôi, một cũng
đủ chết cha người ta. May sao anh bạn kia, Pro-HV, là kẻ “cùng phe”.
Pro-HV vốn là dân Đại học Văn khoa Sài Gòn trước 1975 với cử nhân Việt
Hán hẳn hoi. Chính vì rành chữ Hán hơn người bình thường nên Pro-HV cứ
phom phom viết những chữ Hán-Việt lạ hoắc như “thống hợp”, “ố kỵ”, “xung
tranh”,… rồi tưởng ai đọc cũng hiểu như mình..
Nói của đáng tội, có được người bạn biết chữ Tàu là may cho tôi, ví
như có cuốn tự điển Hán Nôm biết nói, lại biết tra cứu giùm mình, thật
tiện lợi trăm bề. Chả hạn những cái tên Trung Hoa, Pro-HV có thể phiên
âm chớp nhoáng. Gì chứ tôi không thể nghe vô mấy chữ phiên âm tiếng Tàu
(pinyin)(1). Nghĩ mà xem, khi trong bài viết có một đống tên Tàu mà nếu
cứ để y sì chữ pinyin thì đọc lên sẽ ra thế nào? Thay vì Lưu Hiểu Ba thì
là Liu Xiaobo, Mao Trạch Đông thì là Mao Tse-tung (Mao Zedong; Mao
Tse-tung là hệ thống Wade-Giles cũ – DCVOnline) , còn Lý Bạch sẽ ra Li
Po (hay Li Bai – DCVOnline), v.v. Vậy là thay vào những âm thanh mềm mại
dễ thương của tiếng Hán Việt sẽ là một mớ tiếng động loảng xoảng chát
chúa “tchùng, tchéng, tchỏng”, “xằng, xáo, xẻng”, “pạch, pỉn, páo”… Ôi
thôi, nghe điếc cái lỗ tai!
Nhờ có Pro-HV, tôi còn hiểu thêm nhiều điều thú vị về chữ Hán-Việt mà
chỉ có dân “pro” mới biết. Như vừa rồi trong bài “Hiểu Sai Nên Dịch
Sai” tôi có nhắc tới ba chữ Hán-Việt “vô”, “phi” và “bất” đều mang nghĩa
Việt là “không” (như “không có, không còn”). Sau khi đọc bài viết của
tôi, Pro-HV bảo:
- Còn điều này cũng nên biết thêm. Theo văn phạm tiếng Tàu, đi sau
chữ “vô” và chữ “phi” phải là danh từ, như trong “vô lý, vô danh, vô đạo
đức” và trong “phi nhân, phi pháp, phi chính phủ”, nhưng sau chữ “bất”
lại phải là động từ, như trong “bất bạo động, bất tòng tâm, bất biến,
bất thành nhân dạng”, v.v.
- Thật không, tôi vẫn thấy chữ “bất” đi chung với danh từ nhiều lắm, như câu “vô độc bất trượng phu”?
- Câu “Không độc địa không là đàn ông” tôi nghĩ động tự “là” (“thị”
trong chữ Hán-Việt) có thể đã được bỏ ra ngoài, được hiểu ngầm, giống
như ta vẫn bỏ qua những chữ “thì, là, mà, rằng” để câu văn bớt nặng nề.
- Vậy “bất lực” thì sao? “Bất lực” nghĩa là “không đủ sức”, như “Nhà cầm quyền bất lực trước nạn tham nhũng”. Chữ “lực” là danh từ kia mà.
- Trong tiếng Tàu làm gì có chữ “bất lực”, chỉ có chữ “vô năng” thôi. “Năng” là danh từ nên đi kèm với “vô”.
- “Vô năng”? Chữ gì lạ hoắc, chưa nghe qua.
- À, thì mình là người Việt chứ có phải người Tàu đâu mà chữ nào của Tàu mình cũng xài.
Câu chuyện của hai chúng tôi dừng tại đây. Bẵng đi mấy ngày, bỗng tôi nhận được email của Pro-HV, anh cho biết:
- Tôi đi tìm lại chữ “bất lực”, tình cờ tìm ra website này, “Trung Hoa Tự Điển Từ Điển”)
để tra song song với “Hán Việt Từ Điển” của cụ Đào Duy Anh. Kết quả,
thấy rằng cái nguyên tắc “chữ ‘bất’ không đi trước danh từ” mình vẫn
tưởng là đúng, nhưng thật ra có nhiều ngoại lệ quá: “bất nghĩa”, “bất
nhã”, “bất nhân”, “bất nhất” (tiền hậu bất nhất)… Ngay cả “bất lực” 不力
cũng có trong từ điển Tàu, với nghĩa “ineffective”. Trong Trung Hoa Tự
Điển cũng còn ghi luôn cả thành ngữ “lãnh đạo bất lực” 領導不力 (ineffective
leadership) nữa chứ. Đồng thời cũng có cả chữ “vô năng” 無能 được dùng để
dịch nghĩa “powerless”; những người không ưa ông Tổng thống Mã Anh Cửu
của Đài Loan đang xài chữ này để chỉ trích ổng trên Net.
- Nhưng tôi dám cá với bác, người mình chỉ nói “đàn ông bất lực”, chả ai nói “đàn ông vô năng” đâu.
- Ấy, không, không, cái này lại khác nữa bác ơi. Bác nói chữ “bất
lực” ở đây là ý gì? Là “công không ngủ” đó hả. Không được, vì cả từ điển
Tàu và từ điển Hán-Việt đều không ghi “bất lực” với nghĩa “sexually
impotent”, không hiểu tại sao lại thành như thế , theo tôi nghĩ đây có
lẽ là một hình thức biến thể của chữ Hán-Việt – mượn nghĩa trừu tượng
của chữ “bất lực” để mô tả một trạng thái cụ thể về sinh lý, rồi vì được
dùng quen lâu ngày trở thành một nghĩa mới chăng? Nhưng người Tàu dùng
chữ khác.
- Vậy à, chữ gì?
- “Liệt dương”, “tánh vô năng” hay “dương nuy”. Nhưng về cái vụ “này” thì phải dùng chữ của Yên Tử Cư Sỹ mới tuyệt chính xác.
- Yên Tử Cư Sỹ – Trần Đại Sỹ phải không? Ổng nói cái gì?
- “Dương bất cử – Cử bất kiên”
- Hà, để đoán thử coi: “dương bất cử” thì “cử” nghĩa là “đưa lên”,
như trong “cử tạ”. Vậy “dương bất cử” nghĩa là cái “dương” nó không đưa
lên được. Còn “cử bất kiên” thì chịu, không đoán được.
- “Kiên” là “giữ được lâu” như trong “kiên trì” ấy mà.
- Hahaha, thì ra là vậy, “cử bất kiên” nghĩa là “ngóc lên nổi nhưng dek giữ được lâu”.
- Chính thế. Thành ra nếu muốn nói đến chứng “bất lực” thì phải gồm
đủ cả hai trạng thái nguy nan là “không lên và không lâu”, tức là anh
nhỏ không chịu ngỏng lên cho, mà dù ảnh có ngỏng lên thì cũng không chịu
bền cho.
- Ầy, cái vụ “bất cử-bất kiên” này đúng là “bất trị” đấy!
- Đừng có “bất mãn” chứ. Báo tin vui, có bài thuốc hay, uống vào sẽ “bất tri lao”.
- Vậy sao? Tiên dược nào đây?
- Thì cứ hỏi tiên sinh Trần Đại Sỹ khắc rõ.
Bạn đọc muốn biết thêm về “Dương bất cử – Cử bất kiên”, xin mời đọc “Điều Trị Chứng Bất Lực Sinh Lý” của bác sĩ Trần Đại Sỹ – ở đây.
Công bằng mà nói hai anh bạn của tôi đều giúp tôi rất nhiều, một
người giúp tôi hiểu thêm cái hay của chữ Hán-Việt, còn một người giúp
tôi tìm ra cái hay của chữ thuần Việt, đàng nào cũng cần nếu muốn viết
đúng tiếng Việt.
Tôi vào Net tìm đọc những bài viết về chữ Hán-Việt và tóm tắt một số ý kiến như sau:
Nên dùng chữ Hán-Việt trong các trường hợp dưới đây:
1 – Để tỏ lòng kính trọng, như trong các danh xưng ta gọi “người quá
cố” thay cho “người đã chết”, “nhạc phụ (mẫu)” thay cho “cha (mẹ) vợ”
khi ta nói trước đám đông.
2 – Để tránh những hình ảnh sống sượng hay ghê tởm: giao hoan (làm
tình), xuất huyết (chảy máu), hoại thư (thối thịt), đại tiện (đi ỉa),
v.v.
3 – Làm ngắn gọn một câu dài: vô song (không ai sánh được), khả thi
(có thể làm được), tòng phạm (kẻ hùa theo cùng làm ác), tư cách (cách cư
xử của một người),…
4 – Dùng cho trong chuyên môn để không lẫn lộn với đời thường, như
trong ngành xây dựng gọi “trắc địa” thay vì “đo đất”; trong vật lý “quán
tính” chỉ “sức ỳ” của vật, “mã lực” là đơn vị đo lực chứ không là “sức
ngựa”; trong báo chí “tốc ký” là một phương pháp “viết nhanh”; trong
ngoại giao, hai quốc gia “đối thoại” với nhau chứ không “nói chuyện”,
trong tôn giáo “tịnh xá” của tu sĩ không thể gọi là “nhà yên (lặng)”,
v.v…
5 – Cách xưng hô của những nhân vật thời cổ. Dù ta không biết những
người thời xưa gọi nhau như thế nào, nhưng để tạo không khí cổ kính cho
câu chuyện, ta cần dùng những danh xưng Hán-Việt như: huynh đài, các hạ,
tiểu thư, hàn sĩ, phu nhân, v.v.
Một nhận xét cũng đáng để ý là chữ Hán-Việt thường ít cụ thể hơn chữ
Nôm, nhưng chính nhờ tính ít cụ thể đó mà chữ Hán-Việt mang cho ta một
cảm giác lãng đãng, mênh mang; ví dụ những chữ “thuyền viễn xứ”, “khách
tha phương”, người “đồng hương”, lời “ly biệt”, cho ta cái cảm giác bàng
bạc dạt dào mà sẽ không thể có được nếu dùng chữ thuần Việt tương đương
là “thuyền xa bến”, “khách xa nhà”, người “cùng quê”, lời “chia tay”.
Tức nhiên tiếng Việt (và tiếng Hán-Việt) không đơn giản như thế,
nhưng ít ra, từ nay tôi có một cái khung khá rõ ràng để phân biệt. Mỗi
lần tôi tính dùng một chữ Hán-Việt tôi sẽ xét xem nó có rơi vào một
trong sáu trường hợp kể trên hay không, nếu không thì tôi sẽ cố tìm ra
chữ thuần Việt tương đương. Như bây giờ, khi muốn viết chữ “thậm chí”
tôi sẽ dừng lại, tìm chữ Nôm thay thế, như câu “Thậm chí bạn bè thân cũng ghét” nếu viết “Đến nỗi cả bạn bè thân cũng ghét” sẽ nghe dễ hiểu hơn chứ.
Điều cần tránh nhất là dùng chữ Hán-Việt bừa bãi như nhiều quan chức
trong nước. Vừa rồi, khi nói về việc đường sắt Việt Nam lúc gần đây có
nhiều tai nạn hơn, câu trả lời của ông Nguyễn Hoàng Hiệp (Phó Chủ tịch
chuyên trách Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia) được phóng viên đài Á
Châu Tự Do ghi lại như sau:
“Theo nhận định của ông Hiệp thì đây là một điều bất thường và ông
cho rằng tính chất của các vụ tai nạn giao thông đường sắt chủ yếu là
do ý thức của người tham gia giao thông.”
Tại sao phải dùng đám chữ cồng kềnh người “tham gia giao thông” trong
khi từ trước tới nay ta vẫn gọi đó là “người đi đường”. Hẳn ông Phó
Hiệp muốn chứng tỏ mình là người lịch sự nên phải dùng chữ Hán- Việt cho
nó sang, cho ra vẻ quan cách. Cứ cái đà này thì tới khi cần nói “thiến
heo” chắc ông Phó nhà ta sẽ trịnh trọng bảo rằng đấy là “tham gia giải
phẫu heo”!
Cái này không được gọi là chữ Hán-Việt. Cái này phải gọi là chữ “Hán-Vẹm”.
© DCVOnline
- “Hiểu sai nên dịch sai”.Ngũ Phương, DCVOnline, 24-05-2011.
- Vì sao tai nạn đường sắt gia tăng?, Hòa Ái, RFA, 02/16/2012
DCVOnline: (1) Pinyin – bính âm: Phương án phát âm tiếng Hán;
Hán Việt: Hán ngữ bính âm phương án; bính âm là cách thức sử dụng chữ
cái Latinh để thể hiện cách phát âm các chữ Hán trong tiếng phổ thông
Trung Quốc. Bính âm được phê chuẩn năm 1958 và được thi hành năm 1979
tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nó đã thay thế các hệ thống Latinh hóa
cũ hơn như Wade-Giles (1859, sửa đổi năm 1912) và Hệ thống phiên âm Bưu
điện, và thay thế hệ thống Chú âm trong việc dạy cách đọc chữ Hán tại
Trung Hoa lục địa. (Wikipedia.org)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét