MINH DIỆN
Nhân dịp ra Hội An dự đêm thơ Nguyên Tiêu, tôi và mấy người bạn
rủ nhau ra Huế thăm mộ nhà văn Phùng Quán. Ông mất ở Hà Nội ngày
22-1-1995, sau đó được người thân và bạn bè đưa về an táng tại quê nhà
(xã Thủy Dương, Hương Thủy, Thừa Thiên-Huế). Hơn 170 người, gom góp được
223.731.000 đồng, xây mộ hết 127.000.000 đồng, còn lại tặng những học
sinh hiếu hiếu học quê hương nhà văn.
Tôi bước trên những doi cát trắng mịn mà lòng ngập
tràn những suy tư về Phùng Quán. Tác phẩm đầu tay Vượt Côn Đảo của ông
được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955. Về quá trình viết
tác phẩm này, trong di cảo hồi ký "Tôi đã trở thành nhà văn như thế
nào" do NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2007, ông kể
nhiều chi tiết rất thú vị về sự ngẫu nhiên và tình cờ đưa ông từ một
người lính trở thành một nhà văn và những oan khuất phải gánh chịu nhưng
với giọng kể rất hóm hỉnh, không một chút trách móc hay thù hận. Không
lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân văn Giai phẩm bằng hai
bài thơ "Lời mẹ dặn" và "Chống tham ô lãng phí" (1957). Khi phong trào
này chấm dứt dưới tác động của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Phùng
Quán bị kỷ luật, mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải
đi lao động cải tạo ở nhiều nơi.
Từ đó đến khi được nhìn nhận lại vào thời kỳ Đổi mới,
Phùng Quán hầu như không có một tác phẩm nào được xuất bản, ông phải tìm
cách xuất bản một số tác phẩm của mình dưới bút danh khác và câu cá ở
Hồ Tây để kiếm sống. Vì thế, bạn bè văn nghệ thường gói gọn cuộc đời ông
thời kỳ này bằng sáu chữ: "cá trộm, rượu chịu, văn chui".
Năm 1988, cuốn tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán
được xuất bản và hai năm sau đó ông được nhận Giải thưởng Văn học Thiếu
nhi của Hội Nhà văn Việt Nam . Ngoài văn xuôi, Phùng Quán còn sáng tác
thơ và có nhiều bài thơ nổi tiếng như: Hoa sen, Hôn, Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ
Phủ cho vợ nghe...
Mộ Phùng Quán trên đồi cát, dưới bóng cây xanh,
nhìn xuống mặt hồ nước cùng một màu xanh êm ả, bên cạnh mộ bà Vũ Thị Bội
Trâm, vợ ông. Ông đã đi qua một tuổi thơ dữ dội, một cuộc đời sóng gió,
oan khiên, nghèo túng đến xác xơ, giờ thanh thản nằm đây, vẫn chốn
quê nghèo. Đất cát thật thà, cây xanh và hồ nước, cũng đều giản dị và
chân thật như chính cuộc đời ông ! Tấm bia mộ làm bằng phiến đá đen hình
chóp, không mài gọt cầu kỳ, lô nhô góc cạnh, khắc bài thơ “Lời mẹ
dặn” nổi tiếng của ông.
Buổi chiều đầu Xuân. Huế còn lạnh. Chúng tôi bày
đĩa trái cây, chiếc bánh chưng, và đĩa đậu phộng rang, là thứ lúc sinh
thời nhà văn Phùng Quán thích nhất lên mộ ông và rót rượu đế Bàu Đá ra
mấy chiếc chén sành. Gió từ mặt hồ len lỏi qua từng mô đất, bụi cây,
mang theo mủi thơm thoảng của bông sen bông súng, hòa với khói hương
trầm.
Anh Nguyễn Duy Quang, đại tá quân đội nghỉ hưu, cao
tuổi nhất trong nhóm, cầm ba ném nhang khấn trước mộ vợ chồng nhà văn
Phùng Quán:
- Hôm nay giữa tiết tháng Giêng, chúng tôi tới thăm
anh chị. Là những người lính, từng là đồng đội với anh, thương anh ,
khâm phục anh và mãi mãi nhơ anh, cũng như những văn nghệ sỹ giàu tâm
thức đã cất lên tiếng nói chân thực làm rung động lòng người!
Trong không khí trang nghiêm, đại tá Nguyễn Duy Quang đọc bài thơ“Lời mẹ dặn” khắc trên bia mộ:
Con ơi một người chân thật!
Thấy vui muốn cười cứ cười!
Thấy buồn muốn khóc là khóc!
Yêu ai cứ bảo là yêu,
Ghét ai cứ bảo là ghét!
Dù ai ngon ngọt nuông chiều,
Cũng không nói yêu thành ghét!
Dù ai cầm dao dọa giết,
Cũng không nói gét thành yêu!
Những ly rượu trong vắt thơm men gạo rải lên nấm
mộ người quá cố. Hình ảnh nhà thơ Phùng Quán gầy ốm, khuôn mặt khắc khổ,
hai má lõm, chòm râu thưa hiện lên trong khói nhang nghi ngút.
Như đã ăn sâu vào tiềm thức, hay như một hiện tượng
tâm linh, cứ nhắc đến người này trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm lại liên
tưởng đến người kia, cứ hình dung ra một khuôn mặt là những khuôn mặt
khác bỗng hiện lên. Giữa chiều Xuân lành lạnh, lất phất mưa bay, bên tấm
bia mộ nhà văn Phùng Quán, chúng tôi như thấy như có bóng dáng Hoàng
Cầm, Hữu Loan, Quang Dũng, rồi Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang... Những
con người một thời oanh liệt, một thời oan ức, vật lộn trong nghèo túng,
những cái tên đã khắc vào trí nhớ của nhiều người.
Đại tá Nguyễn Duy Quang nhập ngũ năm 1948, khi mới
16 tuổi, từng trải qua 3 cuộc chiến tranh, đánh Pháp, đánh Mỹ, đánh
Tàu, về hưu năm 1988, gần bốn chục tuổi quân. Từ một người lính tuyên
văn, ông lên đến phó chính ủy sư đoàn. Ông có giọng ngâm thơ đầy chất
lính, rất giản dị chân thành, ông nhớ rất nhiểu thơ tiền chiến và đặc
biệt quen biết nhiều người trong nhóm Nhân Văn Giai phẩm.
Năm 1982, khi Hoàng Cầm chuyển tập thơ “Về Kinh
Bắc” ra nước ngoài in, bị bắt giam 18 tháng, đại tá Nguyễn Duy Quang đã
đi thăm, và nói với nhà thơ: “Thế nào cũng có ngày tập thơ của anh cũng
sẽ được in công khai trong nước!”. Quả nhiên mười hai năm sau, điều đó
thành hiện thực.
Hôm ấy, theo đề nghị cùa chúng tôi, bên mộ phần nhà
văn Phùng Quán, đại tá Nguyễn Duy Quang kể lại câu chuyện Nhân văn Giai
hẩm Tôi ghi lại theo lời ông và sau đó có đối chiếu với tư liệu của
nhà văn Lê Hoài Nguyên, đại tá công an, từng công tác ở A25.
Ngày ấy, cách đây hơn nửa thế kỷ, Đảng công khai thừa
nhận sai lầm về đường lối, và căn bệnh quan liêu, mệnh lệnh trong bộ
máy chính quyền. Đề sửa sai , tháng 9-1956, Hội nghị trung ương lần thứ
10, nhiệm kỳ II, đã ra Nghị quyết khắc phục hậu quả sai lầm , mở rộng
quyền tự do dân chủ, phát huy tiềm năng kiến thức của mọi tần lớp nhân
dân. Quốc hội và Chình phủ đã ban hành các đạo luật có tính cởi mở như:
Luật tự do báo chí, tự do xuất bản, tự do hội họp, tự do lập hội.
Phát xuất từ sự cởi mở đó, phong trào Nhân văn Giai
phẩm ra đời. Các nhà văn, nhà báo, trí thức, nghệ sỹ tiêu biểu đã từng
có nhiều công lao trong kháng chiến nhập cuộc, làm nghĩa vụ công dân,
muốn cùng đảng hướng tới mục tiêu đàng đề ra xây dựng một xã hội dân
chủ công bằng, kiến thiết miền Bắc giàu mạnh làm cơ sở đấu tranh
thống nhất nước nhà.
Ông Nguyễn Hữu Đang hồ hởi viết mục đích ra đời tờ
báo Nhân văn: “Vào lúc Đảng và Chính phủ đang có kế hoạch phát triển văn
hóa, cải thiện sinh hoạt, chúng tôi cho ra tờ báo Nhân Văn, để góp một
phần nhỏ mọn vào công việc đó!”.
Nhiều nhà văn, nhà báo, trí thức, văn nghệ sỹ đã viết
bài đăng trên tờ Nhân văn. Ngoài ra họ còn mạnh dạn cất tiếng nói trong
các cuộc tọa đàm.
Bằng tâm huyết, trí tuệ cùa mình, các văn nghệ sỹ,
trí thức thẳng thắn góp ý và phản biện những chủ chương, đường lối
chính sách của đảng, chính phủ, đồng thời nêu lên khát vọng sống của
tầng lớp trí thức cũng như nhân dân lao động.
Bàn về việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, Nguyễn
Hữu Đang viết bài : “ Cần phải chính quy hơn” đăng trong Nhân văn số 4:
“Do pháp trị thiếu sót mà cải cách ruộng đất hỏng to đến thế!
“Do pháp trị thiếu sót mà quân đội chưa có chế độ
binh dịch hợp lý, công an hỏi giấy giá thú đôi vợ chồng ngồi ngắm trăng ở
bờ hồ, hộ khẩu rình bên cửa sổ khiến người ta mất ăn mất ngủ, cán bộ
thuế tự tiện vào khám nhà người kinh đoanh, ở khu phố có chuyện đuổi nhà
lung tung, hoặc ép buộc người ở nhà rộng phải nhường một phần cho cán
bộ hoặc cơ quan ở.
“Do pháp trị thiếu sót mà nhiểu cơ quan bóc xem
thư của nhân viên và một ngành rất quan trọng đòi thông qua những bài
báo nói đến mình.
“Do pháp trị thiếu sót người ta đã làm những việc vu cáo đe dọa chính trị trắng trơn!”…
Ông Nguyễn Hữu Đang đề nghị thi hành Hiến pháp năm
1946, hoặc nếu sửa thì cũng phài bảo đảm quyền tự do dân chủ .
Ông viết: “Dù Hiến pháp sẽ được ban bố có nội dung
thế nào đi nữa, cái phần bảo đảm tự do dân chủ của nó về căn bản vẫn
không thể thay đổi so với Hiếp pháp năm 1946. Vì đó là một điều kiện
“Không có không được” của một chính thể dân chủ”. Ông
Nguyễn Hữu Đang cảnh tỉnh: “Chuyên chính với địch bao nhiêu cũng chưa đủ! Còn chuyên chính với dân thì cần xét kỹ, nếu không hậu quả sẽ tai hại lớn!”.
Bàn về tự do và đấu tranh chống tệ quan liêu, mệnh
lệnh, sùng bái cá nhân, nhà triết học Trần Đức Thảo viết trên báo Văn
nghệ số 3: “Phát triển tự do là nhu cầu bức thiết, đồng thời cũng là
nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như toàn dân!” .
Trong bài “Nội dung xã hội và hình thức tự do” đăng
trong tạp chí“Giai phẩm mùa Đông” ông viết nói cụ thể: “Những ý kiến phê
bình của nhân dân hay của cấp dưới, thì lại hoàn toàn đề cho cấp trên
quyết định có nên xét đến và thảo luận hay không? Cho nên những bệnh
quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân trong tổ chức lãnh đạo có điều kiện
khách quan để phát triển, đẩy mạnh tác phong dàn áp tư tưởng, bỏ qua
quy tắc dân chủ, biến những ý kiến chủ quan, giáo điều thành lập trường
bất di bất dịch. Dựa vào đó những phần tử lạc hậu, bào thủ, ngăn cản ý
kiến quần chúng, cản trở việc sửa chữa sai lầm!”.
Giáo sưcNguyễn Mạnh Tường kiến nghị: “Một chế độ
dân chù thực sự, trong đó người dân được làm chủ đất nước không những
trong Hiến pháp, mà cả trong thực tế!”.
Bằng sự hiểu biết của một trí thức từng trải, ông
kịch liệt phê phán khẩu hiệu trong cải cách ruộng đất: “Thà chết oan 10
người hơn đề sót một kẻ địch”. Ông khẳng định: “Lịch sử phong trào
cách mạng chưa bao giờ, chưa có ai ngăn cản được một phong trào đòi tự
do dân chủ!”.
Giáo sư Trương Tửu kêu gọi : “ Đã đền lúc phải sa
thải những ngưởi lãnh đạo thiếu tư cách mà quần chúng tuyệt đối không
tin tưởng nữa!”.
Cùng với Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh
Tường, Trương Tửu, các giáo sư Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Cao Xuân
Hạo, các họa sỹ Nguyễn Sáng, Sỹ Ngọc, các nhân sỹ trí thức như Dương
Đức Hiền, Đỗ Đức Dục, Đặng Văn Ngữ, Nguyễn Tấn Ghi Trọng, các nhà văn ,
nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt, Phan Khôi, Phùng Quán, Hoàng Cầm , Hữu Loan,
các nhạc sỹ như Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Tử Phác, Đặng Đình Hưng ...
hăng hái góp phần phàn biện. Nhiều tác phẩm văn, thơ, nhạc , họa ra
mắt như “Trăm hoa đua nở” trong một bầu không khí tự do dân chủ.
“Trong những ngày khó khăn chồng chất
Kẻ thủ của chúng ta xuất hiện
Như những con rồng đất khi đỏ khi xanh
Lẫn trong hàng ngũ”
(Văn Cao)
“Nhưng đem bục công an máy móc đặt giữa tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi
Theo đúng luật đi dường Nhà nước
Có thể gây rất nhiểu chua xót ngoài đời”
(Lê Đạt)
Phong trào Nhân văn Giai phẩm vừa nhú lên đã bị bóp chết.
Âý là khi Trung Quốc phát động phong trào: “Đả Hồ Phong” và tư tưởng Maois tràn sang Việt Nam .
Ngày 6-1-1956 , Đảng lao động Việt Nam ra Nghị quyết
30, về “ Chấn chỉnh công tác văn nghệ”, nội dung gần như ngược lại
Nghi quyết 10.
Lực lượng bảo thủ tấn công như bão táp vào nhóm Nhân
văn Giai phẩm. Ông Trường Chinh bị thất thế vì sai lầm trong cải cách
ruộng đất, nắm thời cơ giành lại quyền lực trong đảng. Tố Hữu mượn gió
bẻ măng, trả thù những người không sùng bái mình , điển hình là những
người phê bình tập thơ Việt Bắc . Tố Hữu gọi nhóm Nhân văn Giai phẩm
là bọn phá họai, phản động . Ông ta viết: “Những phần tử phản động mà
đại biểu là bọn cầm đầu nhóm Nhân văn Giai phẩm!”. Các phương tiện
thông tin đại chúng như báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Hà Nội mới, Đài
tiếng nói Việt Nam tập trung phê phán Nhân văn Giai phẩm. Phê phán một
chiều, kết tội, không cho thanh minh. Những nhà văn, nhà thơ xu nịnh và
cơ hội như Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Huy Cận, lôi kéo đàn
em “ném đá” vào những người từng là bạn. Các cơ quan quản lý tiến hành
tồ chức kiểm điểm, kiểm thảo , đấu tố, khai trừ, đuổi khỏi biến chế
những người trong nhóm Nhân văn Giai phẩm, thậm chí cà những người tàng
trữ một vài bài thơ văn cũng bị liên lụy. Lực lượng quần chúng được huy
động mít tinh biểu tình, phản đối, bôi nhọ.
Chiến địch bài trừ Nhân văn Giai phẩm quyết liệt, rộng
khắp từ thành thị đến nông thôn, biến những người tham gia phong trào
dân chủ đơn thuần thành “bọn gián điệp phản cách mạng” .
Ngày 10-12-1959, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
, mở phiên tòa xét sử Nguyễn Hữu Đang, người 14 năm trước, làm Trưởng
ban tổ Quốc khánh 2-9, người dựng lễ đài ra mắt chính phủ Việt Nam dân
chủ công hòa, nơi Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập.
Bản án tuyên: “Chúng là những tên phản cách mạng,
phá hoại hiện hành, hoạt động có tổ chức, thực hiện âm mưu của địch,
tiến hành những hoạt động chiến tranh tâm lý đê hèn nhất , những hoạt
động phá hoại thâm độc nhất, để cuối cùng lật đổ chế độ ta ở miền Bắc!”.
Ông Nguyễn Hữu Đang và bà Thụy An bị kết án 15 năm tù, 5 năm quản thúc.
Cùng với Nguyễn Hữu Đang, 170 nhân sỹ, trí thức,
trong đó có 100 đảng viên, 23 nhà văn, 4 nghệ sỹ sân khấu, 6 nghệ sỹ
điện ảnh, 12 nghệ sỹ mỹ thuật, 4 nhạc sỹ bị xử lý từ khai trừ đến cải
tạo lao động.
Cùng với họ là vợ con, cha mẹ, những ngưởi thân bị
đối xử tàn nhẫn, bị chà đạp nhân phẩm, không cho ngóc đầu lên làm
người!
Trước khi nhắm mắt cụ Phan Khôi trăn trở ví cái mà cụ quý nhất là là phẩm giá bị bôi nhọ.
Ông Trần Dần, người đã từng lấy dao lam tự cứa vào
cổ mình, mà cũng đến lúc phải nhũn ra, cất tiếng kêu ai oán trong một
lá thư giừi cho một người lãnh đạo: “Tôi hy vọng vấn đề cuộc đời
tôi lại đặt ra, ít nhất cũng với tôi, vợ con tôi...Tôi hy vọng ! Tôi
còn nhiều năm tháng. Còn một phần đời! Một phần đời, một ngày cũng đáng
sống! Dù một buổi chiều! Tôi hy vọng! Tôi còn một phần đời! Đề sống !
Đề làm việc! Con cái! Tôi xin sự giúp đỡ! Sự rộng lượng! Ở các anh! Ở tổ
chức!”.
Ba mươi năm sau những người như cụ Phan Khôi,
Nguyễn Hữu Đang, Trấn Đức Thảo, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Lê Đạt
v.v...mới được minh oan.
Phùng Quán nức nở:
Tôi chết giữa Hồng Hà sóng đỏ!
Ba mươi năm sau
Tôi hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn Giang!
Tôi viết bài báo này khi nhiều nhà văn nhà báo và
các nhân sỹ trí thức đang nhiệt tình đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến Pháp
theo lời kêu gọi của đảng. Tôi hy vọng lịch sử không lặp lại những trang
đen tối cách đây hơn nửa thế kỷ.
M.D
------------------
+ Bài liên quan:
+ Bài liên quan:
LỜI MẸ DẶN
* PHÙNG QUÁN
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc:
- Con ơi! trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vờị
In lên vết son đỏ chóị
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Tôi muốn làm nhà văn chân thật, chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
(1957)
P.Q
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét