Hamvas Béla
Nguyễn Hồng Nhung chuyển ngữ
Nguyễn Hồng Nhung chuyển ngữ
(Trích tiểu luận triết học: Scientia sacra)
1.
Ở châu Âu người ta cho rằng từ yoga có liên quan đến từ Latin jugum,
như vậy liên quan đến iga. Theo đó, yoga có nghĩa là đảm nhận một gánh
nặng như thế nào đấy. Xét mặt ý nghĩa cũng như triết học, dịch như vậy
đều cực kỳ sai lầm. Trong tiếng Sanscrit yoga không gần với từ jugum
(iga) mà gần với từ junger (buộc), không mang nghĩa đảm nhận một nhiệm
vụ mà là sự thống nhất. Vài tổ hợp từ, như szam-yoga, hoặc dukha-yoga có
thể nói rõ hơn ý nghĩa của từ này. Yoga như một sự thống nhất giống như
ý nghĩa của từ Hy lạp henósiz, hoặc Latin unio.
Có thể giả thiết từ nhận thức bên ngoài của yoga. Theo Patandzsali
yoga là sự tính sổ với hoạt động của ý thức. Con người cần chọn một nơi
yên tĩnh, thực hiện một thế ngồi đúng để xương và bắp thịt có thể nghỉ
ngơi hoàn toàn và giải phóng ý thức dưới sự điều khiển của cơ thể. Cần
bổ sung sự tĩnh lặng của cơ thể bằng việc hít thở đúng và sâu, để đánh
thức các sức mạnh nằm dưới vô thức. Hai điều kiện này aszana (thế ngồi)
và pranajama (hít thở) là nền tảng thể xác của yoga.
Còn nền tảng linh hồn: pratjahara và dharana. Dịch ước chừng như sau:
thư xả và tập trung. Bước đầu tiên có nghĩa là tránh xa các môi trường
quấy nhiễu, khóa kín các hình ảnh tưởng tượng, chấm dứt các ảo ảnh sinh
trưởng không ngừng của ý thức. Nhưng vì không thể chấm dứt hoàn toàn
hoạt động của ý thức, con người cần liên tục bám lấy một hình ảnh duy
nhất cố ý lựa chọn và đưa vào trung tâm tập trung ý thức của mình. Hình
ảnh này là khách thể thiền định. Hình ảnh dừng lại, yên vị lơ lửng cân
bằng và biến thành hạt nhân của sự hoạt động bên trong.
Bước thứ ba của yoga: dhjana và szamadhi. Trong trạng thái dhjana
những đường nét của khách thể thiền định trong ý thức từ từ mờ nhạt dần
và hình ảnh này cùng ý thức từ từ tan ra. Trạng thái con người nâng lên
mức độ siêu việt. Đấy là dhjana. Ý thức là một bộ phận của cái TÔI cá
nhân con người; trạng thái cao hơn ý thức mà con người duy trì trong
dhjana không phải là trạng thái của cái TÔI cá nhân mà là trạng thái TÔI
của con người phổ quát.
Dhjana là trạng thái phổ quát, trên ý thức, của con người vĩnh cửu.
Szamadhi là trạng thái siêu việt của con người phổ quát từ mức độ cao
của yoga, và nâng lên vị trí cổ không phân biệt của tinh thần. Từ quan
điểm của con người kinh nghiệm szamadhi là trạng thái mê đi
(ekstatikus). Ở khía cạnh vĩnh cửu và tuyệt đối tất nhiên trạng thái mê
sảng này không phải szamadhi mà chính là cuộc đời của cái TÔI bị chìm
vào ảo ảnh của thế giới vật chất.
Từ quan điểm tuyệt đối, szamadhi là sự thống nhất một lần nữa, là sự
tan vào tinh thần cổ đầu tiên, henoszisz, hay còn gọi là unio, nghĩa là:
yoga, hoặc sự thống nhất.
Quá trình có tên yoga có thể tìm thấy trong các văn bản Ấn độ ngay từ
thuở ban đầu, cho dù sau cùng nó gắn liền với cái tên Patandzsali, mà
nguồn gốc của nó giống như của mọi tổng hợp cổ lớn, của chiêm tinh học,
của thuật luyện vàng, của số học, đã bị đánh mất từ thời xa xưa. Mục
đích của yoga là sự thanh toán hoạt động của ý thức. Nghĩa là cách ứng
dụng một phương pháp, mà bằng sự giúp đỡ của nó cắt đứt những hình ảnh
liên tục được sinh ra của ý thức.
Sự sáng tạo những hình ảnh bắt buộc này truyền thống Ấn độ gọi là
szamszara, truyền thống Hy lạp gọi là anake, tạo dựng trong đời sống con
người một sự hỗn loạn tuyệt vọng, mà con đường khác, ngoài sự giúp đỡ
của yoga-sự thống nhất- ra, hay nói cách khác ngoài sự giúp đỡ để quay
về với sự thống nhất cổ của trạng thái cổ ra, không có cách nào giải
thoát.
Yoga chấm dứt quá trình luân hồi (szamszara), chấm dứt sự đông đảo,
sự hỗn loạn, sự nhầm lẫn, và trước hết chấm dứt nguyên nhân đầu tiên,
cội rễ của luân hồi: ý thức của cái TÔI cá nhân.
2.
Ở đây ta không bàn về kiến thức của quá trình yoga, về mối quan hệ
giữa yoga và các truyền thống siêu hình khác nhau, với kinh Veda, với
Sankhja, với đạo Phật, với yoga mahajana và hinajana, với yoga của Tây
Tạng, của Trung Quốc, Hy Lạp, Ai Cập. Không cần thiết.
Yoga-radzsa của Patandzsali dựa trên những cơ bản của truyền thống
cổ, đều là dạng cổ đầu tiên. Như vậy, yoga sức khỏe, yoga hoạt động,
yoga nhân đạo, yoga thiền định, yoga hatha-, karma-, bhakti và các loại
khác nữa rốt cục đều chỉ về một hướng. Đều nói về một sự sùng bái, mà ý
nghĩa đầu tiên và cổ xưa của sự giáo dục so với việc canh tác đất đã
linh thiêng hóa, chăn nuôi gia súc đã linh thiêng hóa, binh nghiệp đã
linh thiêng hóa, cai trị nhà nước đã linh thiêng hóa còn sâu sắc và chứa
đựng nhiều ý nghĩa hơn nữa.
Người đi giáo dục là con người, nhưng đối tượng để giáo dục cũng là
con người. Và nếu như ở đâu đấy, thì ở đây, trên vị trí này tất cả mọi
người đối diện với NGƯỜI THÀY LỚN, giáo dục trong đấu tranh, trong canh
tác đất đai, chăn nuôi gia súc, trong thiền định và trong sự chối bỏ bản
thân: tóm lại là người tiến hành cùng lúc hoạt động linh thiêng hóa để
điều chỉnh lại thế gian, quay trở về với thời hoàng kim, với trạng thái
cổ của sự sống.
Mọi lời giải thích của yoga đều bắt đầu bằng sự phân biệt cơ bản như
sau: cái TÔI cá nhân không phải là thực thể đích thực của con người. Cái
TÔI đích thực không cá nhân mà vượt cao hơn cá nhân, mang tính phổ
quát. Cái TÔI gắn với thân xác kinh nghiệm hóa, gắn với ý thức, là cái
TÔI tạm thời, ảo hình, là sự tưởng tượng bắt buộc, là luân hồi, anake:
là ảo ảnh của cái TÔI phổ quát, vĩnh cửu, vĩnh viễn.
Ảo ảnh cái TÔI cá nhân tan ra trong từng con người, nếu họ bước qua
ngưỡng cửa của thế giới vật chất, khi chết. Nhưng ảo ảnh có thể lộ diện
sớm hơn; đấy là vidja, là sự tỉnh táo.
Trong con người có hai thực thể: cái TÔI cá nhân trong cơ thể, trong ý
thức, bằng hoạt động tâm lý, bằng những đặc tính tinh thần; và một cá
nhân con người vĩnh cửu, phi thể xác, trong trạng thái siêu việt, là
linh hồn tuyệt đối trong sự sống phi chất lượng.
Con người vĩnh cửu không hoạt động; đây là con người mà kinh Veda nhắc đến: “Hai con chim đậu trên một cành cây, một con ăn trái của cây, một con đứng nhìn không động đậy.”
Con người vĩnh cửu không ở trong phạm trù của đời sống, mà trong phạm
trù của sự sống, và như vậy không hành động, không hoạt động, không sống
mà chỉ: có - ngay từ buổi ban đầu, không bao giờ đứt đoạn cho đến tận
cùng của thời gian: có.
Kẻ đi giáo dục là cái TÔI cá nhân và đối tượng của sự giáo dục cũng
là cái TÔI cá nhân. Sự giáo dục trong số phận cá nhân con người là sự
sùng bái của hoạt động với chính bản thân họ: sự hoạt động linh thiêng
hóa của con người với chính bản thân họ: sự cắt đứt, tính sổ với cái TÔI
riêng biệt.
Cái bắt đầu và kết thúc của mọi yoga: tapasz, tự phủ nhận bản thân.
Đây chính là bản chất của sự sùng bái và là ý nghĩa của hoạt động linh
thiêng hóa. Đây là lửa- bởi vì từ tapasz cũng có nghĩa là nhiệt độ và sự
đam mê. Là ngọn lửa của sự tự phủ nhận bản thân. Là sao Hỏa, là lưu
huỳnh là radzsasz. Tapasz, khổ hạnh, tự phủ nhận bản thân không là gì
khác, ngoài việc con người đốt bản thân mình chảy ra tro trên ngọn lửa
tự mình nhóm. Phản ánh sự kiện này từ bên trong chính là hình ảnh đốt
các xác chết trên đống củi lửa.
Trong yoga, cái TÔI cá nhân tự hiến dâng trong bản thân, trên ngọn
lửa nhóm từ chính bản thân mình. Đấy là yoga. Đấy là khổ hạnh, là
tapasz, là sự tự phủ nhận bản thân.
Đây là hình thức cổ của mọi hoạt động mang tính chất sùng bái: cần
đốt cháy thiên nhiên vật chất trên ngọn lửa của chính nó, để nó quay trở
lại trạng thái cổ. Đây là lửa mà con người châm, lửa thiêng, dù là lửa
thiên nhiên hay sự sáng sủa tinh thần, sự tỉnh táo mà người ta gọi là sự
sùng bái. Bởi vậy sự chăm sóc, tình yêu thương, sự giáo dục, sự trù phú
và sinh trưởng, cái đẹp và sự nở hoa, tri thức và sự hoàn hảo cần đốt
cháy trong lửa thế gian để con người và sự vật từ bỏ cái TÔI vật chất và
cá nhân, để quay trở lại với sự sống phổ quát.
Người Thày Lớn của yoga là thực thể châm lửa, truyền ánh sáng, là
thực thể tự đốt cháy bản thân mình, tự dâng hiến bản thân mình. Đấy là
người THÀY LỚN trong cai trị nhà nước, trong canh tác đất và trong binh
nghiệp. Sự giáo dục này là hoạt động linh thiêng hóa. Là sự sùng bái.
3.
Hiểu một cái gì đấy nghĩa là quay lại trạng thái cội nguồn của nó;
chính vì vậy chỉ hiểu được nếu nhận thức từ góc độ siêu hình. Siêu hình
bởi vì vị trí cội nguồn của sự vật là meta ta phüsztika, trên cả thiên
nhiên vật chất, siêu nhiên.
Bậc thang đầu tiên để hiểu siêu hình học của yoga: yoga là sự sùng
bái của cái TÔI cá nhân. Sự sùng bái này hiểu từ góc độ siêu hình như
sau: yoga, vượt qua cả thế giới thiên nhiên, đem con người quay trở lại
vị trí cội nguồn của nó, trạng thái cổ của nó.
Mọi sự sùng bái: thể hiện sự vật trong hiện thực hoàn toàn của
chúng, nâng những khả năng ẩn náu bên trong chúng lên cao hơn; giáo dục
nghĩa là làm cho các sự vật giàu có hơn, đẹp hơn, nở hoa hơn, đúng đắn
hơn, hay nói cách khác đặt chúng quay lại vòng quay cội nguồn của chúng.
Sự giáo dục của con người nghĩa là một lần nữa đặt con người vào vị
trí cội nguồn của họ, trong toàn bộ cái đẹp của họ, trong sự giàu có và
chân chính của họ. Sự giáo dục này là yoga. Trong yoga kẻ đi giáo dục -
con người, gặp kẻ được giáo dục đã linh thiêng hóa - gặp con người.
Điều này hoàn toàn trái ngược với quan niệm hiện đại cho rằng sự khổ
hạnh làm biến đổi con người. Cần phải giữ gìn ý nghĩa cội nguồn của nó:
sự khổ hạnh không tước trần con người khỏi bản chất cội nguồn của nó mà
trái lại: con người được cởi bỏ từ thế gian vật chất, một lần nữa trở về
bản chất thực của mình.
Khi yoga Tây tạng tuyên bố trên thế gian không có gì để dựng xây cả,
chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là phá vỡ, phá bỏ đến những nền tảng cơ
bản, thoạt nghe có vẻ rất mâu thuẫn. Nhưng không. Yoga Tây tạng cũng như
các yoga khác đều nói như vậy: con người cởi bỏ mọi ràng buộc từ bản
chất vật chất không có gì để giữ lại và cứu vớt. Cần từ bỏ toàn bộ. Bản
chất cội nguồn của con người chỉ có thể lấy lại được nếu cái TÔI vật
chất hoàn toàn bị tháo gỡ và phá vỡ. Chỉ lúc đó mới tạo dựng lại nổi bản
chất cội nguồn ấy.
Con người trong thế gian vật chất thô bạo, rối loạn, nghiêng ngả, hèn
hạ, nhỏ nhen, bị hạn chế, u mê, bồn chồn, bất lực, mơ hồ, ghen tỵ, keo
kiệt, kiêu căng. Đây không phải trạng thái và hình dạng cội nguồn của
con người mà là trạng thái và hình dạng con người rơi và chìm ngập vào
tội lỗi. Trong khổ hạnh bản chất đích thực của linh hồn người từ từ được
thực hiện trở lại. Đấy là đặc tính cội nguồn của sinh linh người: sự
anh hùng hóa.
Cùng với tiếp xúc đầu tiên của sự giáo dục, linh hồn tiếp nhận lại
một trong những đặc tính quan trọng nhất của thiên nhiên cổ. Biến chuyển
đầu tiên của linh hồn là trở thành anh hùng. Đặc tính cổ của linh hồn
là thụ động. Và mức độ cao nhất của sự thụ động này là sự phản thân, sự
dâng hiến, sự cho đi, sự anh hùng hóa.
Mức độ rời xa trạng thái cổ hay nói cách khác rời xa trạng thái cội nguồn chưa bao giờ rõ như ở con người lịch sử ngày nay. Con người thời lịch sử quan niệm và hiểu người anh hùng như một dạng người ngoại lệ, hiếm hoi, đẹp, sang trọng nhưng khác người. Chính vì vậy họ hiểu một cách nhầm lẫn xiết bao các bộ môn nghệ thuật, các bản trường ca, anh hùng ca, các truyền thuyết thời cổ.
Mức độ rời xa trạng thái cổ hay nói cách khác rời xa trạng thái cội nguồn chưa bao giờ rõ như ở con người lịch sử ngày nay. Con người thời lịch sử quan niệm và hiểu người anh hùng như một dạng người ngoại lệ, hiếm hoi, đẹp, sang trọng nhưng khác người. Chính vì vậy họ hiểu một cách nhầm lẫn xiết bao các bộ môn nghệ thuật, các bản trường ca, anh hùng ca, các truyền thuyết thời cổ.
Nghệ thuật cổ đại nói về những người anh hùng, không phải những kẻ
ngoại lệ khác người, mà nói về con người thượng đế, nói về tính cách anh
hùng của con người phổ quát, về trạng thái cội nguồn của linh hồn
người. Bởi vì linh hồn con người trong trạng thái đầu tiên và cội nguồn
là linh hồn tự phủ nhận bản thân và dâng hiến, là linh hồn rèn luyện và
cháy lên trong ngọn lửa tự nhóm của bản thân.
Ardzsana, nhân vật của Mahábhárata, Gilgames, Bel, Akhileus, Hektor,
Aeneas đều là những vị anh hùng bởi vì họ là hiện thân của những linh
hồn anh hùng. Tận cuối thời trung cổ người ta vẫn còn hiểu như vậy.
Những người anh hùng không phải những cái TÔI cá nhân, mà họ anh hùng
bởi linh hồn con người từ bên trong họ đã được hiện thực hóa: không hèn
nhát, ghen tỵ, keo kiệt, rụt rè, không hợm hĩnh, u mê, lầm lẫn, không là
những kẻ lặn ngụp bến luân hồi (szamszára-anaké),vật vờ một cách nhầm
lẫn và bất lực, mà là những sinh linh đã thức tỉnh, đã điều chỉnh hiện
thực cội nguồn của linh hồn trong bản thân họ. Đấy là các anh hùng.
Những con người siêu việt. Những con người cổ.
Yoga và khổ hạnh - dù là Đạo của Trung Quốc, hay Atman của Ấn Độ, hay
niết bàn của đạo Phật, hay yoga théosis của Pitago- đều không dạy sự
hành xác chống lại tính chất tự nhiên, mà chỉ bảo con người một cách có
phương pháp, biết hiện thực hóa chủ nghĩa anh hùng trong bản thân mình
một lần nữa.
Yoga không là gì khác ngoài là một hoạt động để linh hồn một lần nữa
biến thành cái là nó. Cũng như canh tác đất hay cai trị nhà nước một
cách sùng kính không là gì khác ngoài một hoạt động, mà từ dấu vết của
nó đất và nhà nước một lần nữa biến thành cái là nó.
Sự sùng bái đặt các sự vật trở lại vị trí ban đầu của chúng, và sự
sùng bái con người trong con người đặt các linh hồn trở lại trạng thái
anh hùng ban đầu của nó: đấy là sự tự phủ nhận mình trên ngọn lửa cháy
sáng, sự hiến dâng, là việc hoàn thành những hoạt động, những hành động
lớn, là sự dũng cảm đường hoàng và ngay thẳng, là thái độ coi thường cái
chết.
Yoga Tây Tạng, Trung Quốc, Ấn Độ, sự khổ hạnh Orphikus và Pitago, sự
tự phủ định mình của Mexico, Peru, da đỏ để phát triển trong con người
tính chất anh hùng ca: bất kể đấy là người anh hùng Asin hay Ardzsuna
tay cầm vũ khí tóm chặt nạn nhân, hay Milarepa hoặc Naropa, kẻ ăn chay
và thiền định thực hành đúng sự tự phủ nhận bản thân này.
Cái bên ngoài chỉ có thể hình thành từ cái bên trong: bên trong của
Asin là ẩn sĩ Orphikus tiếp tục các thực hành khắc kỷ, như Ardzsuna,
người anh hùng của sử thi Bharata có hình dáng bên ngoài của một
Sannyasin sống trong rừng Ấn Độ.
Cả hai loại người này đều hành động giống nhau: tiếp tục sự sùng bái
con người và giải phóng tính chất anh hùng ca của linh hồn. Những anh
hùng của các trường ca và các huyền thoại là hình ảnh tượng trưng của
linh hồn.
“Linh hồn con người không phải linh hồn của tất cả các trạng
thái; chỉ có, nếu con người thức tỉnh, chỉ lúc đó, và đấy là linh hồn
siêu việt”
“Hiểu được, chỉ những kẻ đã sẵn sàng để quyết định; nhưng những kẻ ấy đều trở thành một trong vĩnh cửu” (Veda)
Tất cả các hành động lớn đều phát sinh từ sự cuồng nhiệt của linh hồn
người; tất cả sự cuồng nhiệt đều phát sinh những sức mạnh càng giàu có
và sáng lòa bao nhiêu, linh hồn càng tách xa bấy nhiêu cái TÔI vật chất.
Có những sức mạnh vô hình nảy nở trực tiếp từ những tinh thần cổ, nhưng
những sức mạnh chỉ được nâng cao khi con người đã biết kìm hãm cái TÔI
vật chất.
Yoga là một hoạt động để con người mạnh hơn chính nó: là thứ đưa lại
cho con người nỗi tự chủ vô điều kiện và cho những gì linh hồn khao khát
từ vĩnh cửu, để con người thực hiện: sự trù phú, sự cao thượng quý
phái, sự thật đáng tự hào, sự thẳng thắn, hay đúng hơn: sự anh hùng hóa.
Yoga là một hoạt động của linh hồn anh hùng trên một linh hồn anh hùng.
Đặc điểm của hoạt động này nằm trong con người mang tính cách anh hùng.
Người anh hùng là người mà mọi hành động đều thánh thiện hóa, bởi bản chất của họ là sự thánh thiện. “Con
người thánh thiện hóa bản chất một cách hoàn toàn; và sinh linh đã
thánh thiện hóa này thánh linh hóa toàn bộ các hoạt động của thế gian.
Các hoạt động của thế gian thánh linh hóa toàn bộ thiên nhiên, và sự
thánh thiện hóa này tiếp xúc với những kẻ vẫn còn đen tối, bất công, độc
ác và phạm tội”.
4.
Yoga là sự giáo dục thánh thiện hóa cái TÔI con người. Nó có phương
pháp, hợp lý và không thể giả mạo: không thể canh tác đất đai bằng hai
cách và không thể cai trị nhà nước bằng hai cách.
Phương pháp của yoga là khả năng duy nhất để linh hồn con người quay
trở lại trạng thái anh hùng cội nguồn: tapasz – lửa của sự tự phủ nhận
bản thân. Bản chất say mê tự phủ nhận bản thân và tính cách sùng bái
ngay lập tức trở nên rõ ràng, nếu con người chỉ cần chút ít để ý tới các
vị thánh, như ở Peru có Pacsakamak, ở Mexico có Kecalkoatl, ở Hy Lạp có
Dionüsos, ở Ai Cập có Oziris, ở Ấn Độ có Siva, họ là những biểu tượng
khổ hạnh.
Lũ ma quỷ đã xé xác Pacsakamak và rắc khắp trái đất. Kecalkoatl xuống
trái đất để dạy con người chế tạo những đồ vật đẹp và hữu ích, và giúp
họ xây dựng thành phố bằng đá Hổ Phách, thành phố của Hạnh Phúc. Và bọn
ma quỷ đã tụ họp chống lại ngài. Kecalkoatl đi trốn, nhưng sau cùng ngài
nhìn thấy chúng mạnh hơn. Ngài nhảy vào lửa tự thiêu. Từ tro thân xác
ngài biến thành những con chim biết hát, từ trái tim ngài sao Hôm xuất
hiện.
Oziris bị Szét, thần Bóng tối giết chết, chặt ra từng mảnh và vứt tứ
chi đi khắp nơi. Dionüsos bị lũ titan xé xác. Vị Thần chịu đau khổ là
vị Thần bị chặt ra từng mảnh, bị xé xác, bị thiêu cháy, bị xâu xé. Tính
chất thần linh nằm trong việc con người cần từ bỏ cái TÔi, cần sống đến
sự thiêu hủy tận cùng, cần bước qua ngưỡng cửa của cái chết, cần bị xâu
xé để đạt tới hình dạng và bản chất đích thực. Bởi Pacsakamak cũng bị
tấn công đúng như Kecalkoatl, Oziris, Dionüsos. Nhưng khi họ đã phục
sinh, trong bản chất vĩnh cửu và bất tử, họ không bao giờ chết và được
vinh danh.
Biểu tượng và hình ảnh cổ của tính chất thần thánh và anh hùng hóa:
những người anh hùng là biểu tượng chất người, những tính chất siêu việt
là các ví dụ về sự tự rèn luyện của con người.
Sự khổ hạnh là một sự sùng bái, nấp dưới bóng sự bảo vệ và đặc tính tinh thần của Oziris, Dionüsos, Pacsakamak. Sự tự phủ nhận bản thân là bái vật - Dionüsos; hiện thực hóa số phận siêu việt. Bái vật này là: sự cào xé. Linh hồn con người biến thành siêu nhiên, bởi vì nó mang tính siêu nhiên, và nếu con người nhận ra cần phải trải qua những gì linh hồn các vị thần như Ozisis, Dionüsos đã trải: cần cháy lên và chặt bản thân ra từng mảnh, xé xác mình ra từng mảnh. Cần từ bỏ cái mặt nạ, cái TÔI duy nhất của con người, cần bước qua ngưỡng cửa của sự hủy diệt, để phục sinh và lấy lại bản chất đích thực: trở thành linh hồn siêu nhiên vĩnh cửu và bất tử.
Sự khổ hạnh là một sự sùng bái, nấp dưới bóng sự bảo vệ và đặc tính tinh thần của Oziris, Dionüsos, Pacsakamak. Sự tự phủ nhận bản thân là bái vật - Dionüsos; hiện thực hóa số phận siêu việt. Bái vật này là: sự cào xé. Linh hồn con người biến thành siêu nhiên, bởi vì nó mang tính siêu nhiên, và nếu con người nhận ra cần phải trải qua những gì linh hồn các vị thần như Ozisis, Dionüsos đã trải: cần cháy lên và chặt bản thân ra từng mảnh, xé xác mình ra từng mảnh. Cần từ bỏ cái mặt nạ, cái TÔI duy nhất của con người, cần bước qua ngưỡng cửa của sự hủy diệt, để phục sinh và lấy lại bản chất đích thực: trở thành linh hồn siêu nhiên vĩnh cửu và bất tử.
Kẻ khổ hạnh vì thế mang tính anh hùng. Vì thế tự phủ nhận mình. Vì
thế tự đốt cháy mình - đấy là nỗi say mê từ bỏ, trong ngọn lửa tự đốt
cháy. Linh hồn anh hùng mà hình ảnh cổ của nó là Kecalkoatl và Oziris,
là vị thần tiêu diệt, thần Siva đen, gánh lên mình số phận của thần
linh.
Sự sùng bái không là gì khác ngoài việc con người đặt bản thân mình
vào số phận của các thần linh và sống một đời sống của thần linh. Khi
con người tự rèn luyện bản thân, tự cháy trên lửa riêng của nó, nó đã dự
phần vào sự sùng bái khổ hạnh. Để biến thành Dionüsos, bị xâu xé, bước
qua ngưỡng cửa của cái chết khi đang còn sống, để thanh lọc và lấy lại
bản chất vĩnh cửu.
Quay lại với bản chất siêu việt, với Thượng đế, Saint-Martin nói, con
người phải vượt lên thái độ quay về bản thân. Cần phải để bản thân mình
tự do; cần giải phóng mình khỏi vật chất, khỏi những khát vọng, những
mong muốn thấp kém, để mình có thể hiến thân mình cho Thượng đế.
Các thần linh thời cổ như Dionüsos có quan hệ mật thiết với thời
hoàng kim, với sự sống cổ. Kecalkoatl đồng tình với việc xây dựng thành
phố của Hạnh phúc. Lũ ma quỷ của bóng tối, những sức mạnh của thế giới
vật chất đã tiêu diệt thời hoàng kim. Nhưng ánh sáng niềm hạnh phúc của
sự sống cổ trong linh hồn vẫn cháy không thể dập tắt được. Cần phải xây
dựng lại thành phố của niềm Hạnh phúc.
Yoga tạo dựng để tạo dựng con người, tạo dựng người thợ xây. Yoga tạo
dựng như ở Tây tạng người ta nói: phá vỡ tất cả - tất cả, những gì
không liên quan đến con người. Đây là sự sùng bái trong nó. Chỉ như vậy
nó gánh lên mình số phận siêu việt.
Đấy là sự gánh vác tiêu diệt cái TÔI thấp hèn: để giải thoát. Khi tạo
dựng được người thợ xây, là đã xây nên chính thành phố bằng đá Hổ
Phách. Bởi thời hoàng kim không từ đá mà xây nên từ vàng, và vàng không
là gì khác ngoài linh hồn đã tẩy rửa, là vàng đã tan ra trong ngọn lửa
của sự tự phủ nhận bản thân: là tâm linh anh hùng hóa.
5.
Trong thời kỳ lịch sử không chỉ ở châu Âu mà cả ở phương Đông tất cả
mọi người thường xuyên và nhất quán mắc phải một sai lầm lớn khi muốn
hiểu rõ, và quan niệm về yoga. Thời lịch sử cho yoga là một phương pháp
để phục vụ sự tươi tỉnh, phục vụ niềm cảm hứng cá nhân của con người. Sự
tươi tỉnh, niềm cảm hứng riêng tư, chỉ liên quan đến cá nhân, chỉ là sự
vụ riêng của con người, không phải của ai khác. Quan niệm và sự giải
thích này về cơ bản là sai lầm, lệch lạc.
Châu Âu thời hiện đại hiểu yoga trong tâm lý học cá thể. Nhưng môn
tâm lý học này không đề cập đến linh hồn, và không tiếp xúc với tất cả
những gì liên quan đến linh hồn trong hiện thực. Trọng tâm của tâm lý
học châu Âu không phải là linh hồn mà là cái TÔI. Không phải nhận thức
về linh hồn mà là nhận thức về cái TÔI. Linh hồn trong sự nhận thức này
không là gì khác ngoài kiến thức thường xuyên rối loạn của chức năng của
cái TÔI. Tình thế tất nhiên ngược lại: cái TÔI không là gì khác ngoài
chức năng của linh hồn. Đây là cội nguồn của sai lầm. Bởi vậy người ta
hiểu sai lệch toàn bộ các hiện tượng thuộc về linh hồn của châu Âu hiện
đại, và bởi vậy yoga cũng bị hiểu chệch đi.
Phương Đông hiện đại không có tâm lý học, mặc dù hoàn toàn có thể có,
vì các điều kiện đã có sẵn: tri thức cổ nói về linh hồn đã từ lâu bị
mất, và trọng tâm của đời sống tinh thần của con người không phải là
linh hồn phổ quát nữa, mà là cái TÔI cá nhân hóa. Từ khi xuất hiện sự
thay đổi này, phần lớn phương Đông cũng không thể hiểu khác về yoga, mà
chỉ hiểu như một phương pháp làm thay đổi con người cá nhân.
Nếu người ta sử dụng một văn bản yoga-Đạo Lão, viết không xa xưa lắm,
nhưng chứa đựng hoàn toàn tinh thần cổ, cuốn Taiyi Zongzhi, sẽ hiểu ra
ngay. Văn bản này có tên: “Bí mật Kim Hoa”.
Hoa vàng ở đây tất nhiên không chỉ liên quan đến thời hoàng kim, mà còn liên quan cả đến vàng của những người theo thuật luyện vàng. Bởi vì yoga không là gì khác chính là thuật luyện vàng- là việc quấy giữa biển sữa, để con người cải biến thành cái TÔI bất tử. Nếu con người trong hoạt động này chỉ chú ý đến cái TÔI riêng của mình, nó không đạt được cái gì hết: “Làm sao có thể phát sinh ra từ đấy bất cứ cái gì?”- văn bản đặt câu hỏi.
Hoa vàng ở đây tất nhiên không chỉ liên quan đến thời hoàng kim, mà còn liên quan cả đến vàng của những người theo thuật luyện vàng. Bởi vì yoga không là gì khác chính là thuật luyện vàng- là việc quấy giữa biển sữa, để con người cải biến thành cái TÔI bất tử. Nếu con người trong hoạt động này chỉ chú ý đến cái TÔI riêng của mình, nó không đạt được cái gì hết: “Làm sao có thể phát sinh ra từ đấy bất cứ cái gì?”- văn bản đặt câu hỏi.
Cuốn sách không nói về cách thức thu thập cảm hứng cá nhân. Yoga chỉ
trong hình dạng đã thoái hóa sau này mới trở thành phương pháp thu thập
nguồn hứng khởi cá nhân. Trong ý nghĩa cổ nó là thế ngồi kiết già, là
thuật luyện vàng, chính xác là cái mà người canh tác đi canh tác đất, là
việc vua thể hiện với đất nước và dân chúng: là sự giáo dục, là hành
động thánh linh hóa.
“Trong sự rặng ngời của Kim Hoa ánh sáng của trời và đất tụ
nhất, và thẩm thấu toàn bộ thể gian. Nhưng nếu ánh sáng này chỉ rạng
ngời trong một dáng hình, nó cũng đồng thời chiếu sáng cả trời và đất.”
Cần phải hiểu như sau: mục đích là biến đổi toàn bộ thế gian thành
Kim Hoa. Sự biến đổi của nó thành sự rạng ngời phi hình thể. Như Veda
nói: ánh sáng là bản thể cổ của thế gian, đứng về mặt cội nguồn mọi vật
chất đều là ánh sáng.
Kinh Kabbala nói: “Ánh sáng là bản thể bản chất, là nền tảng của mọi bản thể tồn tại, mọi vật chất có hình dạng nguyên tử cổ.”
Kim Hoa - hoa vàng chính là bản thể bản chất này, đấy là vật chất
cổ, đấy là linh hồn: đấy là vàng của những kẻ luyện đan, là sự sống siêu
việt. Mục đích là làm cả thế gian biến thành ánh sáng rạng ngời, nhưng “nếu nó rạng ngời trong chỉ một dáng hình duy nhất, nó cũng chiếu sáng cả trời và đất.” Từ điểm này một lần nữa nó quay lại với asa-điều thiện.
Nói theo ngôn ngữ ngày nay: Kim Hoa chỉ nở trong một con người duy
nhất đi chăng nữa, cũng mang một ý nghĩa lớn lao vô bờ bến, bởi vì sự
rạng tỏa này lan khắp thế gian, chiếu sáng toàn trái đất. Mục đích không
phải là cứu vớt cái cá nhân, cái TÔI riêng, mà làm thay đổi cả thế
giới.
Yoga là con người dâng hiến, xé nát bản thân và Kim Hoa trong bản
thân dâng hiến cái linh hồn anh hùng của mình từ đúng một điểm, cho đúng
một nơi là nơi con người sống và biến thành Kim Hoa. Nhưng huyền thuật
sùng kính này, xảy ra trong máu tất cả mọi người, như người đàn bà da đỏ
nhân danh con người đan sọt, như kẻ trả lời con Nhân sư là nhân danh
toàn thể nhân loại.
“Nếu con người bắt đầu sự kỳ diệu này, giống như thể trong Sự Sống có một cái gì đó không-tồn tại.”
hay nói cách khác khi con người đến với yoga là nó bắt đầu luyện vàng
của linh hồn siêu việt, nó làm như thể lao vào một sự điên rồ và muốn
tạo dựng một cái gì không có, không-tồn tại.
Nhưng: “Sau một thời gian, con người kết thúc bằng công việc,
thân xác nó đạt đến siêu thoát, như thể có một cái gì Tồn Tại trong cái
không-tồn tại.”
Nói cách khác nữa: bằng hoàn thành yoga, khi con người khai mở Kim
Hoa, khi thân xác đạt đến siêu thoát - đến szah - như người Ai Cập nói,
lúc đó tình thế thay đổi, toàn bộ thế giới vật chất biến thành không-tồn
tại, thành bóng ma mà con người dưới tác động của vòng luân hồi
(szamszara-ananké)tưởng là hiện thực - trong sự nhiễu nhương điên rồ(
abhimana) tưởng đấy là cái có thật - linh hồn, szah, Kim Hoa, lúc đó
biến thành sự tồn tại, thành hiện thực.
Đây là sự tồn tại, là ánh sáng, là linh hồn của mọi hiện thực, là
vòng quay siêu việt (theleszma) của Hermes Triszmegistos, và Kim Hoa
không là niềm cảm hứng của cái TÔI cá nhân mà là một hành động của thế
gian, mang tính chất nhân loại, có tác dụng nhân loại: không ai theo
đuổi yoga chỉ vì bản thân mình, mà vì ánh sáng của thế gian, không ai
cải biến cái TÔI cá nhân mà biết rằng nếu duy nhất chỉ một người từ bản
thân họ nhú lên bông hoa vàng-Kim hoa, thì tác dụng của nó lan truyền và
tác động đến tất cả mọi người, mọi thực thể mọi sự vật một cách vĩnh
viễn.
“Cũng đủ, nếu chỉ một con người duy nhất trả lời cho con Nhân sư (Sfinx)”
6.
Yoga không có ý nghĩa nhiều lắm trong sự biến đổi của cái TÔI cá nhân
trong sự tích lũy của cải riêng, trong sự vinh quang cá nhân hay trong
bản năng quyền lực cá nhân. Yoga hướng về sự chuyển đổi cái TÔI cá nhân
chính là muốn duy trì một kẻ cần hơ nóng trên lửa và đốt cháy: cái TÔI.
Tất cả các phương pháp yoga thời kỳ lịch sử không có ngoại lệ, đều
xuất phát từ tiền đề sai lầm là bằng những phương pháp này cần thay đổi
cái TÔI. Họ không biết rằng yoga là sự sùng bái, là sự đảm nhận và thực
hiện vai trò của Thượng đế, Dionüsos, Oziris, Pacsakamak. Yoga không
phải là quá trình linh hồn, mà là sự biến đổi vũ trụ trong lửa của sự
sùng bái, và kết quả sau rốt là linh hồn con người thay đổi thành vàng,
thành ánh sáng, thành sự siêu việt - thành hiện thực cổ.
Mục đích của yoga là đi vào bản chất sinh linh siêu việt của con
người, nhưng không để tìm cảm hứng riêng của một kẻ tập (yogi) mà là khả
năng để con người người từ từ trở nên siêu việt: càng ngày càng biết
hiến dâng bản thân cho những sức mạnh thánh thần.
Mục đích của yoga: chuẩn bị cho con người trí tuệ và trái tim để đón
nhận sự siêu việt, và hiến dâng toàn bộ con người trở thành công cụ của
Thượng đế. Phương pháp của nó là tapasz-là sự tự phủ nhận bản thân, là
sự khổ hạnh, sự từ bỏ. Để con người có thể trở thành công cụ của các
thần linh, cần đi theo một quá trình gợi tưởng đến buổi ban đầu từ thời
cổ còn sót lại. Quá trình này người ta gọi là yoga, hay là sự hợp nhất
với sự thống nhất của tinh thần thế gian, là henosis, là unio.
Cấp độ yoga cao nhất, cấp độ Atman không phải là một đích tự thân,
bởi vì con người không thay đổi tự bản thân nó, mà là một sự giáo dục kỷ
luật để nâng thứ quý giá nhất trái đất - con người, lên khỏi sự nhiễu
nhương hỗn loạn, biến nó thành công cụ của hoạt động siêu việt, và biến
thế gian, như biến bản thân chính nó thành vàng.
Trong yoga đời sống con người trở thành một quá trình sùng kính. Cá
tính, sở hữu, cái TÔI, thân thể như công cụ và khả năng để con người đạt
tới mục đích duy nhất. Linh hồn sử dụng những công cụ này để tiếp tục
khuấy động biển sữa.
Bởi vậy linh hồn người viên mãn mang tính chất anh hùng, bởi nhiệm vụ
anh hùng: bản chất của tất cả các hoạt động của con người là canh tác
bằng sự hiến dâng để thế gian hãy thành asa-điều thiện- niềm hứng khởi
của đời sống. Ý nghĩa của đời sống là con người hãy nâng chính bản thân
mình lên cao nhất.
Sự canh tác này là sứ mệnh và nhiệm vụ của con người siêu việt, nhưng
vinh quang của việc hoàn thành nhiệm vụ này không phải của con người.
Tất cả mọi con người có một vị trí đã định dứt khoát trong số phận và có
một nhiệm vụ trong thế gian. Tôi không thể để lại vị trí này, và tôi
cũng không thể trốn tránh trách nhiệm này. Và đây là sự đảm nhận tỉnh
táo: yoga.
Nguyễn Hồng Nhung dịch từ nguyên bản tiếng Hung
(Budapest. 2012-09-25)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét