Ông cố nội tôi, người Triều Châu (thường kêu là Tiều) từ Trung Quốc
chạy nạn sang Việt Nam bằng đường biển, sau nhiều ngày phiêu bạt lênh
đênh theo sóng gió rồi cuối cùng tấp vào vùng đất cuối cùng này..Nghe
cha tôi nói ông cố nội đi theo nhóm người Thiên Địa Hội (kêu là người
Minh Hương) trốn sự truy sát của vua Càn Long đời nhà Thanh, khi đi chỉ
xách theo có cái hu ná (tức cái va-li đan bằng sợi mây ta thường thấy
trong các phim cổ Hồng Kông) với hai bộ quần áo. Vậy mà ông làm nên sự
nghiệp, con cháu đầy đàn, ruộng đất cò bay thẳng cánh.
Xứ Mương Điều (bây giờ là xã Tạ An Khương, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà
Mau) có nhà thờ họ của dòng họ Tạ bề thế và kênh Mười Xứ. Mười Xứ là tên
dùng ngoài của bà cố nội tôi, bà là người đứng ra thuê mướn nhân công,
chỉ huy đào cái kênh này lấy nước tưới ruộng lúa cả vùng nên người dân
địa phương đặt luôn tên con kênh mới là kênh Mười Xứ. Đến đời cha tôi
được ông nội cho đi học trường Tàu ở chợ, học nghề với người chú họ cũng
ở chợ. Cha tôi từ nhỏ đã bỏ nghề làm ruộng, ở chung với người Việt bản
xứ lâu ngày nên không còn gốc Tàu nữa mà thành… tào lao rồi, trong nhà
tôi không ai biết nói tiếng Tiều hết.
Cô thứ Bảy tôi, lấy chồng cũng dòng dõi Tàu (miền Tây kêu là Chệt).
Dượng Bảy tôi, năm nay gần 90 tuổi mà còn mạnh khỏe minh mẫn lắm, tự
mình quét dọn nhà cửa, nấu ăn, tự đi cất hàng về buôn bán tạp hóa tại
nhà. Dượng Bảy quanh năm suốt tháng ở nhà thích mặc quần đáy nem bằng
vải đen, là kiểu quần đáy (đũng) rộng được ráp một miếng vải hình thoi
lớn ở phần đáy, thắt lưng bằng dây rút vải lớn bỏ tua bên hông dài đến
gần đầu gối (giống quần tài tử Lý Tiểu Long hay mặc trong phim Mãnh Long
Quá Giang), kèm theo cái áo thun lá tay ngắn mỏng màu trắng. Ra đường
đi đây đi đó thì ông cũng đóng bộ quần tây, áo sơ mi bỏ áo trong quần,
thắt dây nịt da đàng hoàng. Trong nhà, con cái đều kêu dượng Bảy, cô Bảy
tôi là “tia” và “ý” (cũng giống như trong phim Đài Loan), anh chị em
với nhau là “hia” (anh), “chế” (chị), “số” (chị dâu)…, nhưng với bà con
bên vợ, dượng lại bảo kêu dượng là dượng Bảy và cũng tự xưng là “dượng
Bảy” khi nói chuyện, chớ không phải kêu theo Tàu là “cô trượng” (chồng
của cô).
Mấy năm trước, lần nào tôi xuống nhà cô tôi ở Cà Mau chơi, đến bữa
cơm cô tôi cũng đều than: “Tao sợ dượng Bảy mày quá. Ngày nào ổng cũng
giành nấu ăn, tao nấu ổng không cho. Mà ổng nấu thì món gì cũng có cá
mặn với gừng, ăn cá mặn riết rồi tao sợ muốn chết. Ở đây riết rồi ai
cũng biết tánh ổng, kêu ổng là “ông Lào Chệt cá mặn”(*), bạn hàng có cá
mặn ngon mới đem về thì không đem ra chợ bán, mà cứ lại nhà kiếm ổng, có
bao nhiêu ổng cũng mua hết, cột dây treo hàng hàng trong nhà bếp, mà
nhà bây giờ có tao với ổng thôi, mấy hia chế mày ở riêng hết rồi. Cá mặn
đâu có rẻ, cả trăm ngàn đồng một ký, mỗi ký chừng 2-3 con”. Dượng Bảy
nghe vợ “tố cáo” chỉ ngồi cười khì khì, nói chậm rãi: “Thì mua để dành
vậy mùa mưa mới có cá ngon ăn. Dượng quen ăn vậy từ nhỏ rồi con. Người
Tiều thích ăn gừng cho dễ tiêu, ấm bụng. Không có cá mặn, không có gừng
ăn không ngon miệng. Dượng nấu thêm món khác cho cô mày ăn riêng thì bả
hổng chịu, sợ tốn nhiều tiền, sợ cực, sợ nhiều món quá hổng ai ăn hết”.
Con cháu tới nhà chơi, dượng tự mình lụi cụi xuống bếp nấu ăn đãi cháu.
Mà đứa nào thấy dượng làm bếp, muốn vô phụ dượng cũng đuổi ra: “Ngồi
ngoài đó chơi với cô mày một chút là xong rồi. Mấy đứa không biết chỗ
cất gia vị, đồ dùng, làm lâu lắc lắm. Lâu lâu dượng mới có dịp nấu đãi
con cháu, có cực khổ gì đâu. Quen rồi, dượng làm lẹ lắm”.
Cá mặn là con cá lai giữa con cá khô và con mắm. Người ta thường lấy
cá sủ hoặc cá thu lớn làm cá mặn. Cá mặn ngon nhất và mắc tiền nhất là
làm từ cá thu tươi. Cá vừa bắt ở biển lên còn nhảy xoi xói được ướp muối
cả nguyên con rồi phơi chừng 5-6 nắng, thuyền về đến bãi thì cũng vừa
lúc cá mặn ăn được, chủ thuyền đem lên bán cho bạn hàng liền. Cá mặn
ngon hay không là do tỉ lệ muối và cá ở mức độ hợp lý, cái này thuộc về
“bí kíp” của người muối cá, không dễ “truyền thụ” lung tung. Nó không
khô queo như cá khô, không ướt như con mắm, nó không mặn nhiều như mắm
mà mặn vừa đủ để cá không hư thúi, vẫn giữ được vị ngọt, vị bùi béo của
thịt cá, đủ ướt để thịt cá mềm và thơm, cắt ra thịt bên trong đỏ au hấp
dẫn. Cá mặn mắc tiền, nhà nghèo ít khi mua một lần hết nguyên con cá mà
mua từng khúc.
Dượng Bảy chế biến cá mặn thành rất nhiều món ăn ngon miệng như: nấu
canh cải xanh, chiên cơm…, nhưng dượng Bảy tôi thích nhất là món cá mặn
chưng với gừng và thịt heo ba rọi. Người ta làm cá mặn chưng thường cắt
ra một khúc cá, rửa sạch, cắt bỏ kỳ, vẩy (nếu có) rồi cho nguyên khúc cá
vào tô chưng. Dượng Bảy tôi kỹ tính hơn, dùng con dao nhỏ mỏng lạng lấy
phần thịt cá rồi cắt miếng mỏng bằng ngón tay cỡ miếng thịt bò trong tô
phở, phần xương cá có dính thịt dượng gói lại cất vô tủ lạnh nói “để
dành nấu canh”. Dượng nói: “Tao với bả rụng răng hết rồi, để xương ăn
mắc cổ chết”. Thịt heo ba rọi dượng xắt miếng rồi bằm nhỏ, “có nạc có mỡ
mới ngon, nạc không ăn xảm xì hà”.
Dượng lấy một củ gừng lớn, không quá già cũng không quá non, cạo vỏ
rửa sạch, để ráo rồi xắt chỉ thành từng sợi như cái tăm xỉa răng. Gừng
non quá thì không đủ độ cay nồng, loại này làm mứt thì ngon, mà gừng già
quá thì cay quá và có xơ khó ăn. Dượng Bảy lấy cái tô sành lớn, cho cá
mặn, thịt bằm, gừng xắt chỉ vào, rắc thêm chút bột ngọt, một chút xíu
đường cát trắng, một muỗng cà phê tiêu sọ giã nhỏ vô rồi dùng đôi đũa
trộn các thứ trong tô đều với nhau. Trên mặt tô, dượng rải lên hành lá
xắt nhuyễn và củ hành tím xắt miếng mỏng, một nhúm ngò rí xắt nhỏ, một
ít tiêu sọ giã, mấy lát ớt đỏ tươi, rưới lên chừng 2 muỗng canh mỡ nước
hoặc dầu ăn rồi để vô nồi nước sôi chưng cách thủy. Chừng 30 phút, dượng
mở nắp nồi, lấy chiếc đũa đâm đâm vào tô cá mặn chưng để thử coi chín
chưa. Lúc này, hành lá, hành tím, ngò rí, ớt đỏ trên mặt tô đã chín và
dính chặt vào hỗn hợp thịt, cá bên dưới, nhìn rất đẹp mắt và bốc mùi
thơm hấp dẫn. Lấy đũa xắn một miếng cá chưng cho vào miệng, vị ngọt bùi
mằn mặn của cá, vị béo của thịt, vị ấm nồng giòn giòn của gừng, vị thơm
của tiêu hòa cùng các loại rau mùi, gia vị nồng nàn trong miệng, làm cho
miếng cá chưng ngon đặc biệt. Bưng chén cơm gạo trắng xốp nóng lua một
miếng, gắp đệm thêm gắp rau lang luộc, cứ ăn hoài không biết ngán.
Cá mặn chưng gừng ăn với rau tập tàng, rau muống, đậu bắp, đậu rồng,
đậu que luộc là món làm cho hơi bị tốn nhiều cơm. Không luộc rau mà ăn
với dưa leo sống, đậu rồng sống cũng rất ngon. Trời mưa, dọn ra nồi cơm
nóng bốc khói nghi ngút, trên mâm có tô cá mặn chưng gừng thịt ba rọi,
ăn với rau mới luộc nóng hổi thì phong lưu cỡ Hoàng Đế Càn Long cũng
phải “Cho trẫm xin một chén”.
Nhìn dượng Bảy sì sụp ăn hết chén cơm này đến cơm khác với món cá mặn
chưng, rau lang luộc, tự dưng tôi nghĩ: “Hay là dượng Bảy sống thọ khỏe
mạnh nhờ ăn nhiều cá mặn với gừng?”. Cá mặn thường được bán ở các sạp
bán cá khô giá không hề rẻ, giá cũ năm ngoái đến 180 ngàn đồng/kg, mắc
gấp 2 rưỡi lần giá thịt đùi heo ngon. Bây giờ, năm mới cái gì cũng tăng
giá từ 30% đến 60%, thực phẩm tăng giá càng dữ, chắc chắn giá cá mặn
không dưới 200 ngàn/ký. Kiểu này người nghèo vô phương rớ được vào con
cá mặn.
TPT
Chú thích:
(*) Lào Chệt: lão chệt, chệt già
Góc nhỏ: Đọc bài trên tôi mới biết TPT là gốc người Trung Hoa, nhưng blogger TPT cũng là cựu đại uý công an, cựu đảng viên CSVN, người vừa bị tuyên án 10 năm tù và thêm 5 năm quản chế chỉ vì blogger viết về những tiêu cực của xã hội, nếu bạn chưa hề biết thì nên vào Google để tìm hiểu thêm về blogger TPT, một người gốc TH nhưng là một người VN vì tổ quốc VN hơn rất nhiều người VN.
Chú thích:
(*) Lào Chệt: lão chệt, chệt già
Góc nhỏ: Đọc bài trên tôi mới biết TPT là gốc người Trung Hoa, nhưng blogger TPT cũng là cựu đại uý công an, cựu đảng viên CSVN, người vừa bị tuyên án 10 năm tù và thêm 5 năm quản chế chỉ vì blogger viết về những tiêu cực của xã hội, nếu bạn chưa hề biết thì nên vào Google để tìm hiểu thêm về blogger TPT, một người gốc TH nhưng là một người VN vì tổ quốc VN hơn rất nhiều người VN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét