Hồi Ký
Khoảng
vài tuần trước ngày Quốc Hận thứ 38, tôi nhận được thư của anh Lê Minh
bên Úc. Anh Lê Minh một lần nữa lại ủng hộ Quỹ Tù Nhân Lương Tâm (www.tnlt.net)
bằng cách đặt tranh tôi vẽ. Tôi thật cảm kích với hảo tâm của anh ấy vì
xung quỹ với tiền công làm việc cực nhọc ở cái tuổi mà thường tình
người ta chỉ mong sớm được về hưu an nghỉ. Nhưng lần này không như
thường lệ, anh không đặt chân dung cho một người hùng Chiến Sĩ Tự Do
nào, mà lại đặt chân dung của ‘chúng ta’, của Thuyền Nhân !! Lẽ dĩ nhiên
tôi rất hân hạnh được nhận vẽ, nhưng tôi không khỏi nôn nao bồi hồi,
phần vì hăng hái trước một dự án đối với tôi ‘lớn lao’, phần thì lại lo
lắng trước sự phức tạp của chủ đề khi sức tôi mỗi ngày một yếu…
Thế là kế tiếp những đêm mất ngủ băn khoăn suy nghĩ, những ngày tìm
tòi tài liệu hình ảnh … Tôi tự hứa sẽ không mang hình ảnh đến từ trong
ký ức và kinh nghiệm của bản thân vì không muốn hạn chế bức tranh với
những kỷ niệm riêng tư của tôi. Phần thì phải nói, gợi lại những hình
ảnh hay nói đúng hơn những ám ảnh đó quá hãi hùng, quá đau đớn cho tôi…
Tôi ước muốn vẽ cho mọi Thuyền Nhân chứ không chỉ vẽ về cuộc vượt biên
của riêng tôi. Phải chăng đó chỉ là một dụng cớ để tránh nhớ lại những
gì tôi đã tự hứa khóa chặt trong tâm não ?… Tôi chú tâm tìm đọc trên
mạng thật nhiều chuyện thuật lại hành trình khốn khổ của biết bao Thuyền
Nhân… Lẽ dĩ nhiên, tôi không còn cứng rắn đủ như xưa kia để cầm lại
nước mắt, và tự nhủ, Quốc Hận năm nay, không những mình đã tưởng niệm mà
lại còn có cảm tưởng như đã để tang thật kỹ thật nhiều …
Nội dung của bức tranh từ từ hiện lên trong đầu tôi… Cả lộ trình của
biết bao nhiêu người thì làm sao vẽ trong một bức được… Vì thế phải
nhiều bức ráp lại với nhau như để biểu tượng những đoạn trường phải trải
qua trên lộ trình vượt biên, hay để gợi lên những mảnh đời tan nát,
chia lìa cũng như những cuộc hội ngộ, đoàn tụ sau bao tuyệt vọng, những
câu chuyện riêng đã in hằn trong tâm ức chung của người Việt tỵ nạn… Và
để ráp những bức đủ cỡ đó lại với nhau, tôi cần tìm một yếu tố làm cái
‘fil conducteur’, một dây nối tượng hình để gắn liền các bức tranh lại
với nhau… Và tôi tìm đựơc nó khi hồi tưởng lại câu chuyện sau đây…
Mùa Thu năm 1981, lúc ấy tôi mới sang tỵ nạn tại Paris chưa được 2
năm. Tôi đi chạy hầu bàn ở nhà hàng ĐV ở quận 5. Một chiều tối, một cặp
vợ chồng Tây đã đứng tuổi, rất sang trọng bước chân vào quán. Nghe họ
nói chuyện với nhau tôi cứ tưởng họ người Gia-nã-đại. Tôi mời chào và
giải nghĩa thực đơn bằng tiếng Anh, và người đàn ông lớn tuổi hỏi tôi :
« Anh không nói giọng Mỹ như nhiều người Việt tôi từng gặp ! Sao lạ
thế ? ». Tôi cười xuề xòa : « Dạ thưa ông, không có giọng Mỹ, nhưng chắc
chắn là có giọng Việt Nam chính cống ! Giọng của ông thì tôi đoan chắc
là tiếng Anh của Nữ Hoàng (Queen’s english), nhưng bà nhà có phải là
người Gia-nã-đại ? » Ông ta tươi cười : « Anh chỉ đúng một nửa. Tôi là
người Anh, vợ tôi đây người Bỉ. Tên tôi là Peter Townsend, tôi vừa hoàn
tất một quyển sách về một hành trình của Thuyền Nhân, nên tôi đã gặp và
phỏng vấn nhiều người Việt trong các trại tỵ nạn ở mọi nơi… »
Vì bàng hoàng, tôi hấp tấp hỏi ông một cách vụng về và vô duyên :
«Thế thì ông có quen với Cha Hugo không ? », cứ như là hễ một người Anh
nào mà quan tâm đến Thuyền Nhân đều phải biết linh mục này mà chính tôi
lúc đó cũng chưa gặp mặt và cũng chẳng biết tên họ của linh mục này là
gì. Người ta vốn nói ‘Thánh nhân đãi kẻ khù khờ’, thì trước câu hỏi ngu
ngơ của tôi ông Townsend trố mắt, ngạc nhiên đến ngớ ra : « Làm thế nào
anh biết cả con trai tôi à? ». Đến phiên tôi giật mình và chống chế vội
vã : « Trời ơi ! Ông là bố của… Chả là con gái tôi đang đi học ở
Luân-Đôn, nó thuộc về giáo sứ của Cha Hugo, và đã được Cha dẫn đến thăm
trại tạm cư của các Thuyền Nhân, gần giáo xứ, ngay giữa lòng
Luân-Đôn !…». Ông Townsend gật gù và thoải mái hơn, nên đùa : « Trong
một khoảng khắc, tôi cứ tưởng là người Việt nào cũng thần giao cách cảm,
đọc được trong đầu của người đối diện chứ ! »…
Sau bữa ăn, ông ta chìa cho tôi một tấm thiệp có tên tuổi và địa chỉ
của ông và nói một cách rất chân tình : « Khi nào anh có rảnh, gọi điện
thoại số này cho tôi, rồi lên tôi dùng trà, tôi có một vài chuyện muốn
hỏi anh để tìm hiểu thêm về Thuyền Nhân Việt Nam … ». Tôi hân hạnh quá,
được gặp rồi lại được mời đến nhà thân phụ của một linh mục Anh mà con
gái tôi hết lời khen ngợi… Ngoài ra tôi không biết gì hơn về ông Peter
Townsend cả, ngoài quyển sách ông vừa đề cập đến !
Thế rồi một ngày tôi lấy hết can đảm gọi điện thoại và may mắn được
ông Townsend nhận ra và hẹn đến nhà ông. Tôi có cố ăn mặc chỉnh tề mà
càng đến gần nhà ông lại càng cảm thấy mình như anh ngố mới ra tỉnh. Ông
ở một căn lầu trong một biệt thự dưới chân tháp Eiffel lộng lẫy và
khổng lồ. Tất cả trong nhà ông đều sang trọng, quý phái làm sao… Tôi tự
hỏi, tại sao một người như ông ta, đáng tuổi cha, chú tôi lại muốn hỏi
chuyện với một người tỵ nạn tầm thường như tôi ? Chắc cũng nhờ Cha Hugo,
tôi nghĩ… Rồi trước lời chào đón vô cùng nồng nhiệt và bình dị, tôi bớt
hết hồi hộp lo lắng…
Ông Townsend làm trà và mang rót cho tôi, lần đầu tiên tôi thấy sữa
đổ vào tách trà. Rồi ông hỏi han về cuộc vượt biên của tôi. Tôi kể lại
cho ông, đến những lúc tôi xúc động, cái tách trà cũng run lên lách cách
trong tay tôi. Dù nước mắt tôi lưng tròng, tôi cũng thấy được lòng cảm
thông trong ánh mắt long lanh của ông. Ông kể đã đi thăm rất nhiều trại
tỵ nạn từ Mã-Lai đến Hồng-Kông, từ Thái-Lan sang Phi-Luật-Tân. Nghe kể
bao nhiêu chuyện qua lời thông dịch, không làm sao trung thực hoàn toàn
được nhưng cũng đủ cho ông thấu hiểu hoàn cành hãi hùng của bao mạng
người nhỏ bé giữa đại dương … « Chuyện người nào tôi biết đến cũng
thương tâm cả…Làm sao kể lại hết tất cả mọi chuyện… Cuối cùng tôi phải
chọn lựa kể lại một chuyện mà tôi cảm thấy là ‘kinh hoàng’ (terrifying)
nhất và tôi theo dõi câu chuyện đó cho đến cùng. Đó là câu chuyện của
một cô bé gái đi vượt biên cùng người anh/em (brother) trên một chiếc
thuyền cọc cạch, không thể nào tồn tại giữa sóng gió biển cả. Trên tàu
nhiều người đã đuối sức chết vì đói khát, bệnh hoạn vì lênh đênh quá
lâu, cuối cùng tàu tạt vào một bãi san hô… Hai anh em cùng vài người
sống sót tập bắt chim hải âu, phơi khô để ăn…cho đến ngày chỉ còn lại có
cô bé gái, một mình giữa bao xác chết, chơ vơ trên một bãi san hô mỏng
manh giữa trời nước… May mắn sao, vài ngày sau đó một tàu hàng hải đã
cứu vớt. Tôi muốn tìm hiểu thêm về nội tâm của cô bé cũng như sự tự tồn
của một con người trong một thảm cảnh như vậy. Tôi chỉ tiếc là khía cạnh
tâm lý tôi không tường thuật được đầy đủ vì ngôn ngữ và tuổi đời của cô
bé không cho phép diễn tả hết được. Tôi đã bao lần suýt chết trong Thế
Chiến thứ 2, nhưng tôi tự hỏi nếu tôi ở trong trường hợp cô bé gái ấy,
liệu tôi có còn đủ sáng suốt để kể lại không ? Tôi muốn thuật lại qua
quyển sách này một chuyện thật, để cho thế giới của tôi (my world) hiểu
biết hơn về thảm cảnh của Thuyền Nhân Việt Nam, hầu cưu mang họ… Anh
đừng hiểu nhầm tôi, không phải là sự tội nghiệp đã thúc đẩy tôi viết… họ
khốn khó thật đấy, nhưng họ rất kiêu hãnh, cái phẩm cách của những
người đã đi qua địa ngục và sống còn. Qua những ngày tháng đi tìm hiểu
về họ, tôi thấy tôi cảm phục họ, họ thu hút đầu óc (fascinate) tôi trên
rất nhiều khía cạnh mà tôi mong anh có thể giúp tôi hiểu rõ hơn. »
Tôi chỉ tạc ghi trong lòng từng lời ông Townsend nói, hình như tôi
không còn nhớ những gì tôi đáp lại ông, như thể những câu trả lời ấy
chẳng có ký-lô nào…Tôi chỉ nhớ là lúc đó tôi như mở cờ trong bụng là có
những người ngoại quốc suy nghĩ như ông ta. Đây là những điều chính ông
đã bày tỏ hôm đó :
. Grapevine/Truyền miệng : « Người Anh-quốc chúng tôi gọi hiện
tượng này là ‘grapevine’, tin truyền miệng. Trong trường hợp của cô bé
gái trong sách của tôi thì cái guồng máy ‘truyền miệng’ của cộng đồng tỵ
nạn Việt Nam thật là kỳ diệu, phi thường ! Tôi theo dõi trường hợp cá
nhân này và tôi phải nể phục, không thiếu phần bàng hoàng, băn khoăn tự
hỏi : Họ làm cách nào hay vậy ? Một cô bé gái, một thân một minh đến
trại ở một nơi xa lạ, không có một phương tiện truyền thông, truyền
hình, giấy tờ hành chánh, hay bất cứ một hệ thống liên lạc tân tiến nào…
thế mà chỉ qua người này nhắn đến tai người nọ mà tìm lại được cha mẹ
(đi trong chuyến tàu khác, trôi dạt đến một nước khác) và cuối cùng gia
đình được đoàn tụ và định cư ở Úc. Không chỉ riêng tôi, trong UNHCR (Cao
ủy Tỵ Nạn LHQ) ai cũng đã một lần ngạc nhiên khi thấy cách liên lạc tìm
kiếm thân nhân không cần sổ sách, giấy tờ (records) gì cả nhưng rất hữu
hiệu, xuyên qua tất cả biên giới toàn cầu !?! »
. Chiến tranh, Hòa bình và Tự do : « Tôi đã từng chiến
đấu để bảo vệ đất nước tôi. Và tôi đã viết sách tường thuật về mặt trận
‘Battle of Britain’ của không quân Vưong Quốc Anh (RAF) với không quân
Đức Quốc Xã (Luftwaffe). Những gương can đảm tôi đã chứng kiến trong
thời chiến, nhưng tôi phải nể sự can đảm của người Việt trong cuộc di
dân có thể gọi là một biến cố lịch sử, nhất là khi chiến tranh đã chính
thức chấm dứt! Cái gì thúc đẩy họ sẵn sàng bỏ đất nước, liều chết để ra
đi ? Họ chạy trốn Cộng sản, nhưng khi hỏi thì họ đều nói họ đi tìm Tự
do! Tôi có cảm tưởng như họ hãy còn sợ là thế giới bên ngoài chưa lường
được đến mực nào ‘Cộng sản là đối tượng của Tự do’. Cái ý thức của họ về
chữ Tự do đó mới thật là chính đáng. Khi tôi nghĩ, nước tôi đã đẻ ra
cái phong trào Hippy, đưa đến phản chiến, vô tình đã đẩy đưa số phận dân
miền Nam Việt Nam vào đường cùng. Cái lũ hippies thời đó chúng xuống
đường đòi Tự do, chúng có hiểu Tự do là gì đâu, cái tự do của một lũ lớn
lên trong thời bình, chưa biết hy sinh một ngày cho đất nước, chưa biết
chiến tranh nhưng đòi hòa bình, sống với đầy đủ các quyền công dân
nhưng đòi tự do, cái tự do để yêu đương, để hút sách, để đồi trụy, để
hèn nhát, cái loại tự do rẻ tiền, ích kỷ, vô trách nhiệm đó có ngờ đâu
đã mang lại sự mất mát của chữ Tự do cao quý của bao nhiêu người ở bên
kia trái đất ! Tôi muốn gửi bọn chúng đi nghỉ hè bên kia Màn Sắt để học
lại định nghĩa của chữ Tự do. Anh biết không, có một Thuyền Nhân nói vói
tôi mà tôi nhớ mãi : ‘Khi nằm trên tàu trôi dạt, ai không mơ được bay
lượn như cánh hải âu… Ao ước Tự do của chúng tôi đấy !’. Theo tôi, nếu
cánh bồ câu tượng trưng cho hòa bình, thì hình ảnh đẹp nhất của Tự Do,
phải là cánh hải âu ! Lúc đầu tôi muốn đặt tên quyển sách là The White
Seagull (Con Hải Âu Trắng) nhưng sau với nhà xuất bản tôi phải đổi lại
thành The Girl In The White Ship (Bé Gái Trên Chiếc Thuyền Trắng), để
không nhầm với một tên sách khác đã ấn bản. »
Hơn hai mươi năm sau buổi chiều đó, giờ đây tôi có dịp cám ơn ông
Townsend một lần nữa, lần này qua những giòng chữ này. Ông đã nhắc nhở
cho tôi hình ảnh Cánh Hải Âu trong bức tranh tôi đang phác họa. Ông qua
đời đã trên 15 năm rồi, và tôi cũng đã có dịp được hiểu biết tên tuổi
lẫy lừng của ông, một anh hùng của Vương Quốc Anh trong Đệ Nhị Thế
Chiến, người yêu oan trái của Công Chúa Margaret… Nhưng trong tôi, tôi
sẽ giữ mãi hình ảnh của ông chiều hôm đó, một người quý phái nhưng bình
dị, cao cả nhưng khiêm nhường, từng trải nhưng luôn băn khoăn, lạnh lùng
kín đáo nhưng đầy tình cảm…và ông đã quan tâm đến Thuyền Nhân Việt
Nam ! Cám ơn ông.
© Trần Thúc Lân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét