Trần Bình Nam
Cụ
bà Lê Thị Ngộ sinh năm 1911 qui tiên năm 1995 thọ 85 tuổi. Năm 2011 kỷ
niệm bách niên, các người con thu góp bút tích của bà và cho in một tập
Hồi Ký.
Bà sinh trong một gia đình trung lưu, thân phụ mẫu phóng khoáng không
phân biệt nam nữ đã cho bà “đi học chữ” hết cấp tiểu học chương trình
Pháp Việt.
Đời sống bà trải dài qua gần một thế kỷ sóng gió của nước nhà. Với bút
pháp dung dị, bà Ngộ thuật lại đời mình và sự liên hệ với các biến
chuyển lịch sử: Thập niên 1910, nước Pháp đang đô hộ Việt Nam. Năm 1945
cách mạng mùa Thu do những nguời cộng sản chủ động. 1946 – 1954 chiến
tranh giành độc lập, 1954 – 1975 Việt Nam bị chia cắt Bắc Nam. Đến năm
1975 Việt Nam thống nhất dưới chế độ cộng sản. Sau đó là vượt biên, phân
tán chia ly, rồi đoàn tụ gia đình.
Đọc Hồi ký của bà là đọc lịch sử Việt Nam, nhưng không ghi lại bằng
lối ghi của một nhà viết sử mà từ sự lăn lộn của một người bị cuốn hút
trong cuộc. Đọc Hồi ký bà Ngộ độc giả có thể thấy nổi nhục mất nước, cái
khổ của người dân quê Việt Nam trước các thế lực chính trị tả cũng như
hữu, thảm cảnh của chiến tranh, thấy bức tranh của Mậu Thân Huế, thấy
nỗi buồn của di tản, của vượt biên, đời sống xa quê buồn tủi của người
tị nạn.
Thập niên 1910 là thập niên người Pháp bắt đầu dẹp bỏ chữ Hán để thay
bằng một nền giáo dục dùng chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Năm 12 tuổi bà
được bố mẹ cho đi học chữ Pháp và chữ Quốc ngữ: “cha mẹ tôi văn minh hơn, không trọng nam nên tôi được xếp vào hàng gái cũng như trai” (trang 13) (1).
Học chương trình Pháp Việt 3 năm vừa đủ để làm một cô gái trí thức của
miền quê, năm 16 bà đi lấy chồng. Chồng bà là ông đốc học Tuy Hòa, Tôn
thất Dương Thanh thầy dạy của bà. Ông Dương Thanh là cháu đời thứ tư của
vua Gia Long, nhánh Từ Sơn Công, Hoàng tử thứ 13. Ông Thanh có một
cuộc sống công chức gương mẫu, bình dị và bàng bạc qua ngòi bút của bà
Ngộ đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời của bà. Ông Thanh là
cái cột chống mang lại cho bà năng lực đấu tranh với đời.
Tình yêu giữa thầy và trò đã đến một cách tự nhiên. Ông Dương Thanh săn
sóc dạy dỗ bà và bà xiêu lòng lúc nào không biết. Một năm kia, trước
khi ông đốc Dương Thanh đi chấm thi ông ngỏ ý với bà: “Ông đưa cho
tôi một xấp lụa trắng, nhờ thêu cho ông mấy cái khăn tay. Ông vẽ một
cành hoa hường và hai chữ T N tréo vào nhau. Tôi còn ngơ ngẩn chưa nói
gì … bốn mắt chạm nhau … và ông nói …. Em chưa hiểu rồi sẽ hiểu” (trang 18) . Và bà thú thật: “Tuy bề ngoài tôi hơi lạnh nhạt nhưng trong tâm đã bắt đầu cảm mến ông rồi. Tự nhiên trong lòng tôi xao xuyến …” (trang 18). Năm đó thầy đốc 24 tuổi, cô học trò 15 tuổi. Năm sau ông cưới bà.
Vài nét đơn sơ bà Ngộ vẽ ra cái khung cảnh sinh hoạt trong một thành
phố nhỏ dưới thời Pháp thuộc và sự hội nhập của phụ nữ Việt Nam vào giai
cấp thống trị vào đời sống xã hội: “Ông làm hội trưởng hội thể thao,
ông bắt tôi vào hội để khuyến khích phụ nữ ở đây vào hội, như các bà
Ngọc Lan, Kim chi, và hai bà đầm vợ hai ông lục lộ và thương chánh
người Pháp. Chồng tôi … mời hai ông Chiêm, Giao ở Sài Gòn ra dạy cho
phụ nữ Việt Nam trong hội đánh quần vợt bóng bàn” (trang 25).
Và đây là bức tranh làm dâu của xã hội phong kiến của thập niên 1930.
Năm 1928 sau khi sinh con gái đầu lòng, bà đem con về Quảng Nam thăm
quê chồng. Về đến nhà, bà bị cô em của bố chồng la mắng vì đã dùng tên
tục bố chồng để hỏi đường: “Bà cô Công Nữ hỏi tôi sao con biết đường
mà về. Tôi trả lời, dạ con hỏi nhà ông Thế Ngô. Vừa dứt lời bà cho một
trận … ‘Thằng cả nhà này giỏi thật, kén vợ sao vừa về đã kêu tên cha
chồng ra mà chửi rồi. Đồ mọi rú” Bà kể tiếp: “Tôi mất hồn không
biết ất giáp gì cả. Ở đây và xứ tôi cũng vậy, có ai dám kêu tên người
lớn đâu, mà tôi u mê thật đáng đánh đòn nữa là khác. Tôi đứng khép nép,
mẹ chồng thấy tôi sợ sệt, bà chửa cho tôi ‘Nó còn quê mùa xin cô tha
tội. Thong thả rồi sẽ dạy cho nó’” (trang 27)
Bà kể chuyện tàu ô bắt con gái ở các bến cảng, chuyện cọp và người nông
dân ở những vùng gần rừng núi của Việt Nam hoang dã đầu thế kỷ 20 .
Ở Phú Yên10 năm bà theo chồng thuyên chuyển ra Quảng Ngãi, rồi Quảng Trị.
Lúc này bước vào thập niên 1940 người Nhật đã đến nắm hết uy quyền chỉ
để cho người Pháp lo mặt cai trị để rảnh tay lo chiến tranh: “Ra đi
chuyến này thật khổ, vì lúc này tàu hỏa bị Nhật Bổn trưng dụng, ít có
toa cho hành khách. Tàu đến ga Phước Thuận một giờ sáng, đậu 3 phút làm
sao lên kịp cả gia đình đông con … Trên tàu không đèn đưốc … lỡ lên
trúng toa Nhật trưng dụng là bị đuổi … có khi còn bị xô xuống là khác” (trang 49) .
Một người đàn bà Pháp lên nhầm toa Nhật bị đuổi xuống mặt xanh ngắt nước mắt chảy ròng trông thấy mà thương tình: “Ôi
nhục nhã cho dân Pháp lúc này, đã qua thời oanh liệt, bị đầu hàng vô
điều kiện . Người mình cũng sợ nhưng sợ cách khác. Người Pháp sợ nhục mạ” (trang 50).
Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chánh Pháp: “Đến
ngày 9 tháng 3, lúc 11, 12 giờ tôi còn thức làm bánh thì nghe hai tiếng
nổ dữ dội. Cả nhà thất kinh … Rồi súng lớn súng nhỏ nổ liên hồi … “ (trang 53)
Sau đó là nạn đói. Một hôm có ông bạn chồng tôi đến thăm, ông nói với lũ con tôi “Cha mẹ bây thiếu ăn, để bác làm gạo thêm cho” (trang 55) . Sau đó ông bảo tôi hùn 500 đồng để ông buôn gạo rồi ông gạt đi luôn.
Mùa Thu tháng 8 cách mạng thành công, ông Dương Thanh được mời lo về
giáo dục cho tỉnh. Bà tham gia hội phụ nữ. Tháng 8/1946 bà tháp tùng bà
Hội trưởng Hội Phụ nữ Quảng Trị ra Hà nội thăm “bác Hồ Chí Minh”. Buổi
hội kiến có cụ Huỳnh Thúc Kháng hướng dẫn. “Chúng tôi ngồi chờ
cụ Hồ thì cánh cửa bên sịch mở. Cụ Hồ nhanh nhẹn bước vào, tay nhẹ
nhàng khép cửa lại. Cụ bắt tay từng người. Có người chưa kịp chuẩn bị
liền đưa tay trái, cụ cười và nói ‘tay kia tay kia’. Khi cụ mới bước vào
tôi thấy cặp mắt sáng ngời dòm quanh một vòng, lanh như chớp. Tôi nhận
thấy một con người rất cẩn thận, có lẽ vì bản thân vào sinh ra tử nên cử
chỉ thận trọng” (trang 59) .
Trong buổi hội kiến bà Ngộ có một nhận xét nhỏ về cụ Huỳnh Thúc Kháng
có thể giúp trả lời thắc mắc của các nhà viết sử rằng cụ Huỳnh Thúc
Kháng hợp tác với Việt Minh bằng tấm lòng hay bất đắc dĩ. “Tôi thấy
cụ Huỳnh ốm o lắm. Tôi hỏi cụ đau gì mà ốm o vậy. Cụ trả lời không đau
gì cả, chỉ vì không hạp khí hậu thôi. Tôi hiểu ngay, không hỏi nữa” (trang 61)
Cuối năm 1946 toàn quốc kháng chiến. Đầu năm 1947, gần Tết Đinh Hợi
quân Pháp đổ bộ tái chiếm Quảng Trị, chồng bà theo cơ quan giáo dục di
tản. Riêng bà mang gia đình tản cư về Cổ Lũy.Tại Cổ Lũy dân sống một cổ
hai tròng. Việt Minh kháng chiến áp dụng chính sách “giết lầm hơn bỏ
sót”. Quân Pháp thì hành quân liên miên, bắn giết bừa bãi. Ông Thanh
trong một lần về Cổ Lũy thăm gia đình ông bàn với bà đưa con cái trốn
về Huế, lúc này quân Pháp đã tái chiếm và ổn định.
Đi đường sông từ Cổ Lũy qua phá Tam Giang lên Huế “cập
bến Bao Vinh . Hôm ấy ngày 1 tháng 5. Lễ Lao Động, lính Pháp say sưa
bừa bãi, phải tìm đường tránh né nhất là phụ nữ, thật lao đao” (trang 78).
Bà Ngộ sống qua ngày tháng chiến tranh bằng cách đi buôn đường Huế,
Quảng Trị, Đà Nẵng, một tuyến giao thông bằng xe lửa luôn luôn bị mìn,
bom đạn và quân kháng chiến phục kích để phụ chồng nuôi sống gia đình.
Năm 1954 chiến tranh chấm dứt, đất nước chia đôi, ông Dương Thanh tiếp
tục làm việc tại Quảng Trị. Lúc này bà Ngộ, ở tuổi 43 đầy sinh lực và
dày dạn qua những ngày tháng chiến tranh, tham gia hoạt động xã hội và
chính trị tại thị xã Quảng Trị.
Năm 1955 bà được bầu vào ban vận động trưng cầu dân ý chọn thủ tướng
Ngô Đình Diệm hay quốc trưởng Bảo Đại làm tổng thống tạm thời. Hai phiếu
chọn một, phiếu Bảo Đại màu xanh, phiếu ông Ngô Đình Diệm màu đỏ. Bà
ghi: “Trong ban kiểm phiếu nhiều người quá khích làm trò trắng trợn,
nhỏ nhen, không trí thức, đâm mắt rạch mặt cho phiếu màu xanh bất hợp
lệ. Mặc dù đã có khẩu hiệu ‘Xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì’ rõ như ban ngày.
Chuyện gì đến sẽ đến làm chi khó coi như vậy.” (trang 107).
Tháng 10/1956 bà Ngộ đại diện phụ nữ Quảng Trị vào Sài Gòn tham dự ngày
ban hành Hiến Pháp và được mời diện kiến tổng thống Ngô Đình Diệm. Bà
là một trong những người phụ nữ hiếm hoi trong nước được gặp cả hai nhân
vật lịch sử Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm. Hôm diện kiến bà Bút Trà đưa
bà đến trễ : “Ông Đại Tá thường trực hỏi tôi đi đâu, tổng thống và
khách đang chờ bà đó … Trên bàn yến tiệc đã bày sẵn … Một cái bàn chữ
nhật 4 người. Tổng thống và hai ông nhân sĩ Sài gòn đã ngồi còn một ghế
trống cho tôi …. Tổng thống mời tôi ngồi … ân cần mời mọc … Gần mãn
tiệc, tổng thống hỏi tôi, bà đại biểu phụ nữ muốn gì. Tôi trả lời … xin
tổng thống lưu tâm giúp đỡ các cơ quan từ thiện tỉnh Quảng Trị, vì tỉnh
tôi nghèo lắm” (trang 111)
Nhận xét của bà Ngộ cho thấy trong những năm đầu tổng thống Diệm bình
dân chứ không quá xa cách và đầy uy quyền vì bị xu nịnh như sau này.
Năm 1959 ông Dương Thanh nghỉ hưu. Bà Ngộ về Huế sống với đại gia đình
chồng. Năm 1960 phụ nữ Quảng Trị yêu cầu bà ra ứng cử vào Quốc Hội Đệ
nhất Cộng Hòa pháp nhiệm 2 tranh chức đại biểu quốc hội tỉnh Quảng Trị
với ông Hồ Duy Tình đại diện Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia của cụ Diệm.
Cuộc tranh cử gian nan đượm màu sắc chính quyền và kỳ thị nam nữ và nóng từ ngày đầu.
Hôm vận động tại quận La Vang: “Đại
diện chính quyền nói, xin hai vị ứng cử viên lịch sự với nhau. Ông Tình
trả lời cộc lốc ‘không lịch sự chi cả. Với đàn bà không lịch sự được’.
Người ta cười ông Tình lại sùng thêm. Tôi nói ‘Tôi nhận thấy không ít
thì nhiều ông cũng có hấp thụ giáo lý Khổng Mạnh. Tôi tôn trọng nhân vị
ông sao ông không tôn trọng nhân vị tôi’ . Ông nói đàn bà mà nhân vị
chi. Không ai nín cười được” (trang 133)
Bà Ngộ kết luận: “Đến
ngày bỏ phiếu, đồng bào cũng như tôi đều biết trước ông Tình sẽ đắc cử…
Ở thị xã ông Tình ít phiếu, nhưng ông hơn tôi ở các quận nhiều” … Bà mỉa mai: “Ông tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đông tặng tôi một câu, trước khi dơ cao phong bì bỏ vô thùng phiếu: Một con én không làm nên mùa Xuân” (trang 137)
1963 ông Diệm đổ. Năm 1967 bầu cử tổng thống Đệ nhị Cộng Hòa và Quốc
hội. Bà được mời đại diện cho liên danh ứng cử tổng thống của hai ông
Phan Khắc Sửu – Phan Quang Đán và liên danh “Nông Công Binh” của hai ông
Trần Văn Đôn và Tôn Thất Đính.
“Có nước nào văn minh như nước Việt Nam không? Ứng cử tổng thống mà có đến 11 liên danh. Sau rút hai, còn 9 … 6 tự do 3 đảng phái” (trang 143, 144) .
Rồi Mậu Thân. Một bức tranh sống động: “Ngày
mồng một Tết chúng tôi đi thăm bà con. Mấy cháu ở đây nó cản không cho
đi nhiều … Té ra ở đây người ta biết Việt Cộng về hoạt động rồi” …
“Tới
2 giờ sáng nghe pháo kích, cả nhà hoảng hốt, súng liên hồi đến 3 giờ
sáng chưa dứt … Trời sáng mẹ con tôi thấp thỏm nhìn bốn phía, khi dòm
lên thành thấy người đi trên thành rất đông, đi dép râu”… Con tôi nói
‘Việt Cộng rồi không sai má ơi …’
Ngày nào phèn la cũng đánh inh ỏi ngoài đường kêu gọi thanh niên ra trình diện tham gia công tác …
Ngày mồng tám súng nổ tràn đến xóm tôi …
Ngày mồng chín … một quả đạn lớn nã đến xóm tôi, con nít la khóc om sòm … Ông Dương Thanh khuyên bà mang con ra khỏi thành lánh nạn.
Ngày 11 súng lớn bắn quá cỡ chưa đi được …
Ra khỏi thành tôi tạm trú nhà ông cụ làm tòa án . Sáng 14 tôi chạy vào thành tìm đứa con trai …
Ngày 28 rể tôi là lính Cộng Hòa, nghe tiếng súng nhận ra tiếng súng bạn nó nói ‘Mạ đừng sợ súng của ta đó’…”
Bà dẫn con cháu qua hữu ngạn tạm trú tại trại tạm cư trong trường Đồng Khánh.
“Gạo cơm không có phải mượn của bà Doãn (2) 8 lon gạo để nấu ăn đỡ rồi sẽ hay. Bà Doãn thật tốt chứ hồi này ai cho mượn gạo …. Thật đáng quý tấm lòng thiện của bà Doãn” (trang 161).
Sau Mậu Thân là mùa hè đỏ lửa.
“Năm 1972, mùa hè đỏ lửa, dân Quảng Trị chạy vắt giò lên cổ, kéo nhau chạy chí mạng” (trang 166)
Rồi biến cố 1975.
“Ngày
29/3 năm 1975, giải phóng vào Đà Nẵng … Không biết lệnh của ai mà Đà
Nẵng cắm toàn cờ Phật giáo. Hai ngày sau cờ Phật giáo hạ xuống, cờ
giải phóng tung bay …
Đi lên một đoạn nữa gần nhà thờ Tin Lành đường Khải Định, thấy một anh
lính Cộng hòa, cũng quần áo rằn ri đi một mình rất hiên ngang mang trên
vai khẩu súng trường. Hai tên giải phóng áp lại tước khí giới anh này
không đưa. Tên đứng sau cho một phát đạn, não văn ra tứ tung. Anh té
xuống chết không kịp ngáp. Tôi bưng mặt khóc nức nở …. “(trang 169).
Sau 30/4 bà trở về Huế: “Đời
sống thay đổi đột ngột, ngày nào cũng đi họp, kêu trình diện khai báo
đủ cách. Thấy khó sống tôi dù vào Sài gòn đem theo mấy đứa nhỏ … Mấy
tháng sau nhà nước đánh tư sản mại bản.
Bà buôn bán đổi chát hàng hóa linh tinh trên đường Lê Thánh Tôn để sống:
“Đường Lê Thánh Tôn đủ hạng người, Huế có, Quảng Trị có, Đà Nẵng cũng có …
Có người bạn chồng tôi hỏi, ông Đốc đâu rồi mà bà làm bạn với ông Nghè Hồi (3) vậy (trang 171, 172)
Năm 1981 ông Dương Thanh được con gái bảo lãnh đi Thụy Điển đoàn tụ gia đình. Gia đình yên ổn.
“Năm
1983 cả gia đình khỏe mạnh yên ổn nhưng các con cháu thi cử chẳng ra
gì. Không phải chúng nó dốt không vào được đại học, mà vì lý do có cha
mẹ là ngụy quân ngụy quyền …” (trang 181)
Tháng 3/1984 bà đi Thụy Điển đoàn tụ với chồng và con gái: “Đến
cầu thang lên máy bay tôi để hành lý xuống chắp hai tay vái hai cái,
con xin từ tạ giang sơn đất nước, ông bà cha mẹ. Cầu trời Phật cho con
hai năm được trở về quê cha đất tổ, gởi gắm thân già nơi đất mẹ. Mười
hai giờ máy bay cất cánh. Hành khách toàn người đi đoàn tụ, kẻ lau nước
mắt, người sụt sùi bịn rịn …” (trang 189)
Năm 1986 ông Dương Thanh qua đời và chôn tại Thụy Điễn:
“Ông
chết không có gì đáng tiếc chỉ tiếc ông nguyện về đất mẹ gởi thân xác
mà không được như ý nguyện … Tôi đau xót vô ngần không sao quên được
người chồng tình nghĩa tri âm tri kỷ, 60 năm trời vàng son gắn bó” (trang 222)
Năm 1989 bà Ngộ trở về Việt Nam và qua đời năm 1995, thọ 84 tuổi .
Một thế kỷ sóng gió của đất nước Việt Nam và của một đời người được
đóng lại mở đầu cho một kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên của thế kỷ 21.
Trần Bình Nam
May 8, 2013
Ghi chú:
(1)
Chữ nghiêng trích nguyên văn từ Hồi ký ấn bản 2011 do nhà in Papyrus ở
San Jose . Số trong ngoặc là số trang trong ấn bản đó.
(2) Bà Hoàng Thị Doãn, giám học trường nữ trung học Đồng Khánh.
(3) “Nghè Hồi” nói lái là “ngồi hè”: ngồi chò hỏ trên vỉa hè
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét