Phanxipăng
DCVonline
Bài
thơ Ngày xưa Hoàng Thị của thi sĩ Phạm Thiên Thư được nhạc sĩ Phạm Duy
phổ thành bài hát cùng nhan đề vào năm 1971, được nhiều ca sĩ lần lượt
thể hiện, tạo sức lan toả sâu rộng. Cũng từ đó, đề cập đến nữ nhân vật
trong tác phẩm Ngày xưa Hoàng Thị, vì lắm lý do, có những ngộ nhận đã
xảy ra khá nực cười.
Thơ bay bằng cánh nhạc
Phạm Thiên Thư có họ tên Phạm Kim Long,
chào đời năm Canh Thìn 1940 tại Hải Phòng trong một gia đình Đông y mà
cha gốc Thái Bình, mẹ gốc Bắc Ninh. Giai đoạn 1943 – 1951, Phạm Thiên
Thư sống ở Hải Dương, rồi theo gia đình vào Nam, cư ngụ tại Sài Gòn từ
năm 1954. Lớp đệ tam (tương đương lớp 10 hiện thời), Phạm Thiên Thư học
trường Trung học tư thục Văn Lang ở khu Tân Định, quận 1, chung lớp với
một nữ sinh gốc Hải Dương là Hoàng Thị Ngọ tuổi Nhâm Ngọ 1942. Phạm
Thiên Thư kể:
“Hoàng Thị Ngọ dáng người thanh mảnh, tóc thả ngang vai. Xếp hàng vào lớp, nàng đứng đầu hàng nữ, tôi đứng cuối hàng nam. Vào lớp, nàng ngồi bàn đầu, tôi ngồi bàn cuối. Ngọ học giỏi, còn tôi thì giỏi… đánh lộn. Thế mà tôi yêu nàng. Yêu đơn phương. Nhà tôi ở đường Trần Khát Chân. Nhà Ngọ ở đường Trần Quang Khải. Mỗi lần tan trường, nàng ôm cặp đi bộ về nhà, tôi cứ lẽo đẽo theo sau.”
Phạm Thiên Thư thi đỗ tú tài bán phần
(1) rồi trở thành sinh viên phân khoa Phật học thuộc Viện Đại học Vạn
Hạnh (2). Từ năm 1964, Phạm Thiên Thư trở thành tu sĩ Phật giáo với pháp
hiệu Thích Tuệ Không, trải qua các chùa Kỳ Quang(3), Từ Vân (4), Vạn
Thọ(5). Mặc dầu ăn chay và khoác nâu sồng, những mỗi lần đi về khu Tân
Định, Phạm Thiên Thư lại bâng khuâng luyến nhớ mối tình đơn phương thuở
học trò. Xúc cảm, Phạm Thiên Thư sáng tác bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị, âu
yếm gọi rõ tên nàng trong khung cảnh mây đỏ, cây đỏ, hoa đỏ, bụi đỏ:
Em tan trường về
Cuối đường mây đỏ
Anh tìm theo Ngọ
Dáng lau lách buồn
(…)
Mười năm rồi Ngọ
Tình cờ qua đây
Cây xưa vẫn gầy
Phơi nghiêng dáng đỏ
Phạm Thiên Thư cho biết:
“Năm 1968, tôi ấn hành cuốn sách đầu tay Thơ Phạm Thiên Thư(6) với số lượng ít ỏi, chỉ 500 bản. Lúc đó, tôi là tu sĩ, ngại bất tiện nên chỉ in bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị theo dạng trích. Đến năm 1971, gặp nhạc sĩ Phạm Duy, tôi trao trọn vẹn bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị. Ít lâu sau, Phạm Duy phổ bài thơ này thành bài hát. Năm 1974, tôi in đầy đủ bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị trong thi tập Ngày xưa người tình (6).”
Phạm Duy viết trong hồi ký Nhớ (NXB Trẻ, 2005):
“Sự gặp gỡ của
tôi với Phạm Thiên Thư – mà thi sĩ gọi là của một ngọn núi với một đám
mây – là do hai chúng tôi vô tình cùng đi thăm một người quen đang nằm
trong một bệnh viện. Gặp Phạm Thiên Thư ở đó, tôi yêu mến anh ngay. Sau
đó, thi sĩ luôn luôn tới nhà tôi đàm đạo. Lúc bấy giờ, tôi đang soạn
những bài ca cho tình yêu và tuổi học trò như Trả lại em yêu, Con đường
tình ta đi. Đọc được bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị mà anh bạn trao cho, tôi
như bắt được viên ngọc quý và xin phổ nhạc ngay.”
Trong “nhạc tập 2” Đưa em tìm động hoa vàng (NXB Trẻ, 2006), trước ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị, Phạm Duy ghi:
“Sài Gòn 1971.
Tôi gặp Phạm Thiên Thư vào lúc tôi đang soạn những bài ca cho tình yêu
và tuổi học trò như Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi. Tôi được vị tu
sĩ vừa cởi áo nâu sồng đưa cho một bài thơ cũng nằm trong đề tài này để
phổ nhạc, chỉ khác có một điểm là cô bé trong bài thơ không mang những
cái tên diễm lệ như Tuyết Nhung hay Dạ Thảo, mà mang một cái tên rất
bình dị là Ngọ, Hoàng Thị Ngọ. Tôi dùng một âm giai ngũ cung và một thể
nhạc kể truyện để đưa ra tình khúc rất bụi đỏ đường mơ này.”
Ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị được Phạm Duy
soạn nhịp ¾, tiết tấu valse (7), âm giai chủ chuyển từ si thứ trưởng
sang đô trưởng, tôn vinh kỷ niệm tình yêu học trò tương ứng mạch thơ của
Phạm Thiên Thư. Thế nhưng, khi trở thành ca từ trong bài hát cùng nhan
đề, lời thơ Ngày xưa Hoàng Thị của Phạm Thiên Thư đã được Phạm Duy linh
hoạt chuyển biến khá nhiều về từ ngữ và bố cục.
Với ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị, thoạt
tiên, Phạm Duy ghi: “Allegro” (8). E rằng thuật ngữ tiếng Ý kia chưa
diễn tả đủ sắc thái cần thiết, nên nhạc sĩ chua nghĩa: “Nhanh mà buồn”.
Sau này, nhạc sĩ chỉnh lý: “Kể chuyện”.
Giữa năm 1971, nhạc phẩm Ngày xưa Hoàng
Thị liền được in rời với bức ảnh Rừng thu của nhiếp ảnh gia Nguyễn Xuân
Tính, rồi tái bản ngay với tranh màu nước tươi trẻ sinh động của hoạ sĩ
ViVi (9). Năm 1974, Phạm Duy ấn hành tập nhạc Con đường tình chúng ta đi
(NXB Gìn Vàng Giữ Ngọc) gồm 16 ca khúc, trong đó có Ngày xưa Hoàng Thị.
Cũng từ năm 1971, qua làn sóng phát
thanh và truyền hình, đồng thời qua băng từ, ca sĩ Thái Thanh ngân vang
Ngày xưa Hoàng Thị. Sau đó, trên các nền hoà âm phối khí khác nhau, Ngày
xưa Hoàng Thị được lần lượt thể hiện bởi bao chất giọng: Thái Hiền,
Julie Quang, Thanh Lan, Hoạ Mi, Hương Lan, Quang Linh, Đức Tuấn, Quốc
Đại, Nguyễn Hoàng Nam, Thái Hạnh Quyên, Thu Hiền, Thu Thuỷ, Mai Hương,
Quỳnh Hương, Đoan Trang, Phương Vy, Kim Ánh, Khánh Linh, Thuỳ Dung, Mỹ
Huyền, Thanh Ngọc, Thanh Thuý, v.v.
Đừng đổi thay nguyên mẫu Hoàng Thị Ngọ!
Tìm hiểu về nguyên mẫu nhân vật trong
các tác phẩm văn nghệ (thơ, văn, nhạc, hoạ, múa, điêu khắc, nhiếp ảnh,
điện ảnh, v.v.) là nhu cầu của đông đảo công chúng cùng các nhà nghiên
cứu tự ngàn xưa đến mai sau. Tác phẩm càng nổi tiếng, nhu cầu đó càng
cao. Bài hát phổ thơ Ngày xưa Hoàng Thị được phổ biến rộng khắp, trở
thành “hiện tượng”, tất nhiên thiên hạ càng muốn biết nguyên mẫu người
phụ nữ mang họ tên mộc mạc chân chất Hoàng Thị Ngọ. Tôi hỏi:
- Hoàng Thị Ngọ đang ở đâu?
– Nàng hiện định cư tại Hoa Kỳ, Phanxipăng ạ.
Phạm Thiên Thư đáp thế, đoạn tiếp:
“Báo chí miền Nam trước đây, gồm tờ Bách Khoa và tờ Sống, đã thực hiện đề tài: nhân vật chính trong Ngày xưa Hoàng Thị là ai? Hình như giai đoạn đó, đồng bào quá hoang mang vì chiến sự ác liệt nên ít đọc, hoặc đọc xong thì quên béng, bởi thế sau này mới xảy ra những ngộ nhận nực cười.”
Hà Đình Nguyên ghi chép lời của Phạm Thiên Thư rồi đăng báo Thanh Niên 6-6-2011, sau đưa vào tập 1 Những bóng hồng trong thơ nhạc (NXB Thời Đại, 2011):
“Sau khi bản
nhạc ra đời, ca sĩ Thái Thanh là người hát đầu tiên. Không những thế,
bài hát còn lan rộng trong quảng đại quần chúng, đi đâu cũng nghe người
ta hát, nhất là trong giới sinh viên học sinh. Rồi có vài ba cô gái tự
nhận mình là cô Ngọ trong Ngày xưa Hoàng Thị. Nổi đình nổi đám nhất là
cô bạn gái của nhà thơ Du Tử Lê tên là Thảo nhưng nhất quyết “đòi” quyền
làm… Hoàng Thị Ngọ, đến đỗi nhạc sĩ Phạm Duy phải đến gặp tôi để hỏi
cho ra nhẽ.”
Kỳ thực, Thảo chẳng phải tên thật, mà
tắt hoá bút hiệu / bút danh: Hoàng Dược Thảo, chủ nhiệm kiêm chủ bút báo
Sài Gòn Nhỏ, toà soạn đặt tại California, Hoa Kỳ. Hoàng Dược Thảo có họ
tên tiếng Việt là Huỳnh Thị Châu, họ tên tiếng Pháp là Brigitte Lauré
Huỳnh. Năm 1971, tại Sài Gòn, học lớp đệ nhị (tương đương lớp 11 hiện
thời); Châu lấy nhà thơ Du Tử Lê (10), rồi sinh 2 con. Năm 1975, Du Tử
Lê sang Hoa Kỳ. Năm 1978, nhờ có quốc tịch Pháp, Châu đi Pháp rồi qua
Hoa Kỳ. Ly dị Du Tử Lê năm 1980, sau đó Huỳnh Thị Châu mấy lần tái giá.
Viết văn và làm báo, Huỳnh Thị Châu ký các bút danh Hoàng Dược Thảo, Đào
Nương, Thuỵ Châu, Nghé Ngọ, v.v.
[1) Năm 1971 mới học lớp đệ nhị (lớp 11 ngày nay) thì khó có thể là bạn cùng lớp với Phạm Thiên Thư (ông sinh năm 1940). 2) Nếu cô nữ sinh nhận là Ngọ mới học đệ nhị vào năm 1971 ắt là người lớn tuổi (đã 29) và học rất chậm vì Ngọ sinh năm 1942. 3) Hơn nữa, Phạm Thiên Thư trong tập thơ đầu tay năm 1968 đã trích thơ Ngày xưa Hoàng Thị (sáng tác trước khi ông đi tu năm 1964), thì cô nữ sinh đệ nhị năm 1971 mới là học trò lớp nhất (lớp 5) năm 1964 hẳn cũng không thể xếp hàng chung lớp với Phạm Thiên Thư để ông lấy hứng làm thơ mơ mòng con nít. - DCVOnline.]
Dư luận gần xa vụt râm ran khi Hoàng
Dược Thảo tuyên bố rằng bản thân mình chính là nguyên mẫu nhân vật Hoàng
Thị Ngọ trong bài thơ lẫn bài hát Ngày xưa Hoàng Thị. Phản ứng với vụ
việc này, tuần báo Việt (11) số 24 phát hành ngày 9-7-2005 tại
California, Hoa Kỳ, đăng bức thư của thi sĩ Phạm Thiên Thư do nhạc sĩ
Phạm Duy chuyển. Thư nọ cho biết: Hoàng Dược Thảo tức Huỳnh Thị Châu chẳng phải là Hoàng Thị Ngọ.
Mọi chuyện tưởng đã hai năm rõ mười, ai
ngờ vừa qua, tháng 3-2012, tập san Đồng Khánh – Hai Bà Trưng do trường
trung học phổ thông cùng tên ở Huế ấn hành dịp kỷ niệm 95 năm thành lập
cơ sở giáo dục này có đăng bài Ngày xưa Đồng Khánh của Bạch Lê Quang
trình bày những suy tư quá ư sai lệch:
“Không hiểu sao, cứ
mỗi lần nghe Ngày xưa Hoàng Thị (thơ Phạm Thiên Thư – Phạm Duy phổ
nhạc), tôi cứ nghĩ hình như khúc thánh ca tình yêu tuổi học trò nầy là
riêng dành cho Đồng Khánh, cho Huế và cho những Áo tà nguyệt bạch của
một thời niệm khúc ngày xưa. Nhưng cũng không thể nghĩ khác hơn. (…) Và
nữa, ngoài cái đường mưa nho nhỏ ướt rượt cả không gian Huế, lại còn Áo tà nguyệt bạch / Ôm nghiêng cặp sách / Vai nhỏ tóc dài...
Chao ơi, ai cũng có thể ôm nghiêng cặp sách nhưng với style vai nhỏ tóc
dài thì đó là hàng độc của một made in Đồng Khánh ngày xưa trong tâm
thức Huế. (…) Rồi thì, sau cái vai gầy rất Đồng Khánh kia đó là dáng.
Dáng Ngọ. Ngọ của Phạm Thiên Thư. Và Ngọ của Huế, của lau lách Vĩ Dạ
buốt lạnh cả thơ Hàn trong một đêm trăng sông mộng mị. Anh đi tìm Ngọ / Dáng lau lách buồn / Tay nụ hoa thuôn / Vương bờ tóc suối.
(…) Vâng, đường mưa nho nhỏ, áo tà nguyệt bạch, vai nhỏ, dáng gầy lau
lách… là hình, là diện. Đồng Khánh nhất trong Ngày xưa Hoàng Thị của
Phạm là cái tình ơi, tình ơi. Đồng Khánh là vậy. Tan trường, biết có
người theo sau vẫn Bước em thênh thang / Áo tà nguyệt bạch. Quá lắm là cả một lặng im với cái mím môi rất chi là Huế. Em
tan trường về / Đường mưa nho nhỏ / Trao vội chùm hoa / Ép vào cuối vở /
Thương ơi! Vạn thuở / Biết nói chi nguôi / Em mím môi cười / Anh mang
nỗi nhớ. Biết làm sao được. Hoàng Thị là vậy. Muôn đời vẫn có một
Đồng Khánh ẩn mình trong tâm hồn Huế để cho đời một thứ tình mà Hà Huyền
Chi gọi là tình… nấp. (…) Chàng Tư Mã họ Phạm (mà không riêng gì họ
Phạm) trước thứ tình nấp đó chỉ biết Anh đi theo hoài / Gót giày thầm lặng rồi Anh đi theo Ngọ / Dáng lau lách buồn. (…) Đến đây thì không thể nghi ngờ gì nữa, có một Ngày xưa Hoàng Thị dành riêng cho Huế, cho Đồng Khánh.”(12)
Nhắc một bài hát quen thuộc, nhưng Bạch
Lê Quang không dẫn ca từ mà dẫn thơ, trong khi hai khoản này có những
khác biệt nhất định. Dẫu khác biệt, song nữ nhân vật duy nhất trong thơ
lẫn ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị vẫn cùng một người là Hoàng Thị Ngọ. Oái
ăm thay, với lối gán ghép cực kỳ khiên cưỡng và trá mị của Bạch Lê
Quang, nguyên mẫu Hoàng Thị Ngọ gốc Hải Dương ở Sài Gòn bị biến thành nữ
sinh trường Đồng Khánh có liên quan hoặc cư ngụ nơi thôn Vĩ, bây giờ là
phường Vĩ Dạ, thành phố Huế. Mà sao lại làng Vĩ Dạ, chứ không phải làng
Nguyệt Biều, bây giờ thuộc phường Thuỷ Biều, thành phố Huế, nổi tiếng
với bao giai nhân dòng Hoàng Trọng, nhỉ? Cụm từ “cái vai gầy rất Đồng
Khánh” thể hiện thói tật ba hoa một tấc đến trời. Vai nhỏ tóc dài há lẽ
“là hàng độc của một made in Đồng Khánh ngày xưa trong tâm thức Huế”,
chứ không thể mô tả phần nào vóc dáng nữ sinh của mọi trường trung học
thuở trước lẫn bây giờ trên toàn đất nước Việt Nam ư? Còn Tình ơi! Tình
ơi! (ghi đúng theo nguyên tác của Phạm Thiên Thư) chẳng chất chứa đặc
điểm gì “Đồng Khánh nhất”, nếu gắn chặt với bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị
chắc chắn phải “Văn Lang nhất”, bằng không thì bất kỳ nơi chốn nào trong
cõi-người-ta cũng được.
Tại quận 10, TP.HCM, đọc xong bài Ngày
xưa Đồng Khánh, nhà thơ Phạm Thiên Thư bị “sốc toàn tập”. Không thể kìm
nén nổi nỗi bất bình nên Phạm Thiên Thư nói lớn giữa quán cà phê Hoa
Vàng:
“Tập san Đồng Khánh – Hai Bà Trưng ghi rõ rằng Bạch Lê Quang là giáo viên tổ trưởng tổ Văn trường trung học phổ thông Phan Đăng Lưu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Thế thì đáng buồn thật! Chẳng rõ kiến thức đâu, tư duy đâu mà Bạch Lê Quang đổi trắng thay đen, tán rằng Hoàng Thị Ngọ là nữ sinh trường Đồng Khánh ở Huế, lại còn bốc rằng Ngày xưa Hoàng Thị dành riêng cho Huế, cho trường Đồng Khánh, hả?”
Đã đăng trên Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số 790 (20-07-2012)
Nguồn: Hoàng Thị – ngày xưa, ngày nay. Phanxipăng. Trang Chim Việt Cành Nam.
DCVOnline: Phanxipăng là bút danh của tác giả Trần Ngọc
Tĩnh. Ông là tác giả viết nhiều thể loại: lịch sử, tín ngưỡng, văn học,
ngôn ngữ, giáo dục, âm nhạc, sân khấu, và ông còn làm thơ, viết phóng
sự. Phanxipăng có nhiều bài viết đăng ở trang Chim Việt Cành Nam.
(1) Tú tài bán phần / tù tài đơn / tú tài I thi cuối lớp đệ nhị / lớp
11. Tú tài toàn phần / tú tài kép / tú tài II thi cuối lớp đệ nhất /
lớp 12. Từ niên khoá 1971 – 1972, Bộ Quốc gia Giáo dục ban hành Nghị
định 939GD/KHPC/HV/NĐ bãi bỏ tú tài bán phần tại miền Nam Việt Nam.
(2) Là đại học tư thục đầu tiên tại Việt Nam, Viện Đại học Vạn Hạnh
được Phật giáo đầu tư và hoạt động từ năm 1964 đến năm 1975 do tỉ khâu
Thích Minh Châu làm Viện trưởng, tỉ khâu Thích Mãn Giác làm Viện phó.
Mới thành lập, Viện Đại học Vạn Hạnh tạm đặt tại chùa Xá Lợi và chùa
Pháp Hội; tới năm 1966 thì dời đến cơ sở biệt lập tại 222 đường Trương
Minh Giảng, nay là đường Lê Văn Sỹ, Q.3, TP.HCM. Với chủ trương “duy tuệ
thị nghiệp”, Viện Đại học Vạn Hạnh thuở ấy có các phân khoa: Phật học,
Văn học và Khoa học nhân văn, Khoa học xã hội, Giáo dục, Khoa học ứng
dụng.
(3) Đây là chùa Kỳ Quang I, hiện có địa chỉ 22B Nguyễn Thị Huỳnh, P.8, Phú Nhuận. Trên địa bàn TP.HCM còn có chùa Kỳ Quang II tại 154/4A Lê Hoàng Phái, P.17, Gò Vấp; và chùa Kỳ Quang III tại 73 xa lộ Hà Nội, phường Thảo Điền, Q.2.
(4) Chùa Từ Vân còn được gọi chùa Bà Đầm, chùa Lý Dương Sanh, được Lý Thị Ly sáng lập năm 1932. Chùa này hiện có địa chỉ 62 Phan Xích Long, P.1, Phú Nhuận, TP.HCM.
(5) Nằm bên bờ kênh Nhiêu Lộc, chùa Vạn Thọ hiện có địa chỉ 212/158 Nguyễn Văn Nguyễn, phường Tân Định, Q.1, TP.HCM. Các vị hoà thượng trụ trì chùa này: Thích Huệ Nhựt giai đoạn 1942 – 1951, Thích Thiện Tường giai đoạn 1951 – 1966, Thích Bửu Tuyền giai đoạn 1966 – 1980, Thích Thanh Sơn từ năm 1980 đến nay. Chùa Vạn Thọ đang đặt văn phòng Ban Đại diện Phật giáo Q.1 và cơ sở chữa trị bong gân, trặc khớp xương.
(6) NXB Văn Chương, Sài Gòn.
(7) Tiếng Pháp: valse. Tiếng Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Đan Mạch, Na Uy: vals. Tiếng Bồ Đào Nha, Latinh: valsa. Tiếng Ý: valzer. Tiếng Hà Lan: wals. Tiếng Anh: waltz. Tiếng Ba Lan: walc. Thuật ngữ này bắt nguồn từ Walzen trong tiếng Đức cổ (tiếng Đức hiện đại ghi Walzer), nghĩa gốc là uốn, xoay, lướt đi. Tiếng Hoa: 圓舞曲 mà bính âm phát yuánwǔqǔ , âm Hán-Việt phát viên vũ khúc.
(8) Theo Thuật ngữ và ký hiệu âm nhạc thường dùng do Đào Trọng Từ, Đỗ Mạnh Thường, Đức Bằng hợp soạn (NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1984) thì thuật ngữ tiếng Ý allegro mang nghĩa: “Nhanh, vui, sôi nổi”.
(9) ViVi là một nghệ danh của hoạ sĩ Võ Hùng Kiệt, chào đời năm Ất Dậu 1945 tại Vĩnh Long, tốt nghiệp trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn năm 1968, vẽ bìa, vẽ truyện tranh cùng minh hoạ trên các tờ Tuổi Xanh, Tuổi Hoa, Thiếu Nhi, Ngàn Thông, Bạn Trẻ, Tinh Thần, Trái Tim Đức Mẹ, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Dân Chủ, Độc Lập, v.v., trình bày một số sách giáo khoa và vẽ tem bưu chính.
(10) Du Tử Lê có họ tên Lê Cự Phách, chào đời năm Nhâm Ngọ 1942 tại tỉnh Hà Nam, di cư vào Nam năm 1954, từng làm thư ký toà soạn nguyệt san Tiền Phong, được trao giải Văn chương toàn quốc bộ môn thơ năm 1973, sang Hoa Kỳ năm 1975. Du Tử Lê có nhiều vợ. Với vợ kế Huỳnh Thị Châu / Thuỵ Châu, Du Tử Lê từng sáng tác các bài thơ Khúc Thuỵ Du (đã được nhạc sĩ Anh Bằng phổ thành ca khúc cùng nhan đề), Khi trông thư Thuỵ Châu, v.v.
(11) Việt Weekly.
(12) Có thể đọc trọn bài Ngày xưa Đồng Khánh của Bạch Lê Quang khi truy cập Ngày xưa Đồng Khánh. Bạch Lê Quang-tổ trưởng tổ Văn trường THPT Phan Đăng Lưu.12/04/2012.
(3) Đây là chùa Kỳ Quang I, hiện có địa chỉ 22B Nguyễn Thị Huỳnh, P.8, Phú Nhuận. Trên địa bàn TP.HCM còn có chùa Kỳ Quang II tại 154/4A Lê Hoàng Phái, P.17, Gò Vấp; và chùa Kỳ Quang III tại 73 xa lộ Hà Nội, phường Thảo Điền, Q.2.
(4) Chùa Từ Vân còn được gọi chùa Bà Đầm, chùa Lý Dương Sanh, được Lý Thị Ly sáng lập năm 1932. Chùa này hiện có địa chỉ 62 Phan Xích Long, P.1, Phú Nhuận, TP.HCM.
(5) Nằm bên bờ kênh Nhiêu Lộc, chùa Vạn Thọ hiện có địa chỉ 212/158 Nguyễn Văn Nguyễn, phường Tân Định, Q.1, TP.HCM. Các vị hoà thượng trụ trì chùa này: Thích Huệ Nhựt giai đoạn 1942 – 1951, Thích Thiện Tường giai đoạn 1951 – 1966, Thích Bửu Tuyền giai đoạn 1966 – 1980, Thích Thanh Sơn từ năm 1980 đến nay. Chùa Vạn Thọ đang đặt văn phòng Ban Đại diện Phật giáo Q.1 và cơ sở chữa trị bong gân, trặc khớp xương.
(6) NXB Văn Chương, Sài Gòn.
(7) Tiếng Pháp: valse. Tiếng Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Đan Mạch, Na Uy: vals. Tiếng Bồ Đào Nha, Latinh: valsa. Tiếng Ý: valzer. Tiếng Hà Lan: wals. Tiếng Anh: waltz. Tiếng Ba Lan: walc. Thuật ngữ này bắt nguồn từ Walzen trong tiếng Đức cổ (tiếng Đức hiện đại ghi Walzer), nghĩa gốc là uốn, xoay, lướt đi. Tiếng Hoa: 圓舞曲 mà bính âm phát yuánwǔqǔ , âm Hán-Việt phát viên vũ khúc.
(8) Theo Thuật ngữ và ký hiệu âm nhạc thường dùng do Đào Trọng Từ, Đỗ Mạnh Thường, Đức Bằng hợp soạn (NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1984) thì thuật ngữ tiếng Ý allegro mang nghĩa: “Nhanh, vui, sôi nổi”.
(9) ViVi là một nghệ danh của hoạ sĩ Võ Hùng Kiệt, chào đời năm Ất Dậu 1945 tại Vĩnh Long, tốt nghiệp trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn năm 1968, vẽ bìa, vẽ truyện tranh cùng minh hoạ trên các tờ Tuổi Xanh, Tuổi Hoa, Thiếu Nhi, Ngàn Thông, Bạn Trẻ, Tinh Thần, Trái Tim Đức Mẹ, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Dân Chủ, Độc Lập, v.v., trình bày một số sách giáo khoa và vẽ tem bưu chính.
(10) Du Tử Lê có họ tên Lê Cự Phách, chào đời năm Nhâm Ngọ 1942 tại tỉnh Hà Nam, di cư vào Nam năm 1954, từng làm thư ký toà soạn nguyệt san Tiền Phong, được trao giải Văn chương toàn quốc bộ môn thơ năm 1973, sang Hoa Kỳ năm 1975. Du Tử Lê có nhiều vợ. Với vợ kế Huỳnh Thị Châu / Thuỵ Châu, Du Tử Lê từng sáng tác các bài thơ Khúc Thuỵ Du (đã được nhạc sĩ Anh Bằng phổ thành ca khúc cùng nhan đề), Khi trông thư Thuỵ Châu, v.v.
(11) Việt Weekly.
(12) Có thể đọc trọn bài Ngày xưa Đồng Khánh của Bạch Lê Quang khi truy cập Ngày xưa Đồng Khánh. Bạch Lê Quang-tổ trưởng tổ Văn trường THPT Phan Đăng Lưu.12/04/2012.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét