Tuần rồi dắt con ra tiệm thuốc Bắc, dụ con bảo thôi để cho ông thầy bắt mạch xem con có bị ...nóng cái gì không? Ông thầy nhìn mặt thằng con rồi hỏi bị bệnh gì, trời đất biết thì đâu có đến hỏi? Ông bảo lè lưỡi ông xem rồi nói là bị nóng cái chi đó, phát toa uống ba thang thuốc, nhìn thuốc chả thấy có vị nào đáng đồng tiền bát gạo mà họ chém cho 10 đồng một gói, lại bảo họ giữ toa khi nào cần tới họ sắc tiếp, đi chợ Tầu ở LA thì chỉ đáng 3 đô là hết cỡ, vì tôi đi mua thuốc thường xuyên. Nghĩ bụng còn lâu tôi mới dắt con tôi trở lại. Thầy thuốc đời nay cho toa còn giữ lại để câu bệnh nhân, tiệm thuốc thì cứ chém vì bênh nhân nhìn thuốc chả biết mô tê gì hết. Bạn nghe sẽ bảo ai bảo ngu thì ráng chịu. Thì thế ở đời có cái dại nào giống cái nào đâu. Có dại thì mới khôn ra chứ đúng không? :-)
Cho nên về nhà lại loay hoay đi tìm những toa thuốc "gia truyền" từ thời mẹ tôi để lại. Cũng những toa thuốc chữ loằng ngoằng chả biết là cái chi chi, nhưng có ghi chữ quốc ngữ là chữa cho bệnh gì, dĩ nhiên chả chữa cho bệnh gì cả, chỉ là bổ thận, bổ huyết, bổ phổi, đại khái thuốc Đông y thì phần nhiều là thuốc bổ, chữa thì dùng Tây y thì hiệu quả hơn, tôi nghĩ vậy.
Đang nghĩ linh tinh thì có bài thuốc bổ thận người ta gửi, không biết ra sao nhưng gõ trên Google thì không thấy nên post vào đây để ai có nghiên cứu cần dùng thì cứ thử. Bài thuốc được gửi đến với câu chuyện của chủ nhân toa thuốc. Có điều chỉ có hai vị là ghi mấy chỉ, còn những vị khác thì không biết là chỉ, củ, miếng, hay là một nhúm. Thôi thì cũng nhờ mấy ông thầy thuốc rành họ bảo cho, nghĩa là ai uống thì chịu trách nhiệm nhé.
Đang nghĩ linh tinh thì có bài thuốc bổ thận người ta gửi, không biết ra sao nhưng gõ trên Google thì không thấy nên post vào đây để ai có nghiên cứu cần dùng thì cứ thử. Bài thuốc được gửi đến với câu chuyện của chủ nhân toa thuốc. Có điều chỉ có hai vị là ghi mấy chỉ, còn những vị khác thì không biết là chỉ, củ, miếng, hay là một nhúm. Thôi thì cũng nhờ mấy ông thầy thuốc rành họ bảo cho, nghĩa là ai uống thì chịu trách nhiệm nhé.
Tiên Dược Cứu Bịnh Trần.
THÁI HUỆ SƠN
Toa thuốc bổ khí bổ thận:
Thục địa 3 chỉ
Hoài Sơn 3 chỉ
Trạch Tả 3
Đơn bì 2
Táo Ngọc 2
Phục linh 2
Hắc đỗ trọng 3
Ngưu tất 3
Bạch Truật 2
Ngọc thung dung 3
Táo nhơn 4
Viễn chí 2
Quảng bì 3
Ngươn nhục 3
Đản sâm 3
Thăm hỏi các cụ già, thỉnh thoảng có cụ đi tiểu khó khăn, đi tiểu lắc nhắc nhiều lần, có khi bị bí đái luôn. Phải đi bác sĩ chuyên về Niệu khoa để xoi cho thông, đặt ống, hay giải phẩu tuyến tiền liệt (prostate) bị sưng lớn cản trở đường dẫn nước tiểu từ bàng quang ra. Bí tiểu cũng là chuyện rất khẩn cấp. Nếu không kịp gặp bác sĩ thông cho cũng có thể tử vong. Để ý tìm hiểu về việc nầy, tôi có đọc được một bài viết của cư sĩ Thái Huệ Sơn, thấy hấp dẫn và biết đâu một ngày nào chính mình hay ai đó có thể cần đến, nên tôi trích đăng vào đặc san nầy để các cụ khi cần thì dở ra tham khảo và áp dụng. Trích đăng chứ không thêm bớt, khi nào dùng thì nghĩ cũng nên tham khảo với các thầy thuốc Bắc chân chính.
BBT.
Toa thuốc được viết lại như sau theo trang Y học Cổ Truyền
1. Thục địa 3 chỉ
2. Hoài Sơn 3 chỉ
3. Trạch tả 3 chỉ
4. Đơn bì 2 chỉ
5. Sơn thù du 2 chỉ
6. Phục linh 2 chỉ
7. Đỗ trọng 3 chỉ
8. Ngưu tất 3 chỉ
9. Bạch truật 2 chỉ
10. Nhục thung dung 3 chỉ
11. Toan táo nhân 4 chỉ
12. Viễn chí 2 chỉ
13. Quảng bì 3 chỉ
14. Nhục quế 3 chỉ
15. Đảng sâm 3 chỉ
16. Bạch đầu ông 2 chỉ
17. Câu kỷ 3 chỉ
18. Chích hoàng kỳ 2 chỉ.
Bài này có các vị Nhân sâm, Phục linh, Bạch truật để bổ tỳ và phế khí; các vị Phuc linh, Sơn thù, Hoài sơn, Đơn bì, Thục địa, Trạch tả dùng để bổ thận âm; các vị Viễn chí, Đan sâm, Câu kỷ tử, Nhục thung dung, Chích hoàng kỳ, Ngưu tất là những vị bổ máu, hoạt huyết (bổ âm), vị Phấn thảo (Bạch đầu ông) là vị để tả nhiệt ở hạ tiêu và kháng sinh. Bệnh bí tiểu thường là do nhiệt kết ở hạ tiêu (thận, bàng quang) khiến cho thận âm bị thương tổn mà sinh ra bí tiểu. Như vậy bài này bổ thận âm, bổ máu, để lợi thủy, lại dùng các vị bổ khí mà phế chủ khí, phế thuộc về kim chính là dùng kim để khai thủy, vị Phấn thảo để tả nhiệt ở hạ tiêu và kháng sinh (trị nhiễm trùng đường tiểu). Bài này dùng các vị rất thông dụng, không phải là tiên dược gì đâu mà chính vị thầy ra toa này mới là "tiên" vậy. Người nào bị bí tiểu, tiểu sẻn, tiểu buốt, nước tiểu ra ít, đục hoặc có máu (do thấp nhiệt tích tụ ở thận, bàng quang) đều có thể dùng được. Bí tiểu do sạn thận, sỏi bàng quang, sỏi tiết niệu thì không có tác dụng nhiều. (Phó)
Sau đây là bài viết của tác giả Thái Huệ Sơn:
Tôi xin thuật lại cho bạn đạo nghe một chuyện khó tin mà có thật: Đầu năm 1990, tôi còn ở Saigon, được chính quyền CS cấp hộ chiếu (passport) cho cả gia đình sang định cư bên Mỹ theo diện HO. Lúc xong mọi thủ tục đợi ngày đăng ký chuyến bay lên đường, thình lình tôi bị cảm sốt. Tôi uống thuốc cảm hai ngày, cơn sốt không thuyên giảm mà lại biến chứng sang bí đái. Thế rồi bọng đái lói tức và sưng to lên như quả dừa. Tôi vội vàng đi khám bác sĩ chuyên môn về thận và đường tiểu. Bác sĩ Nam lên án bệnh tôi là u xơ tiền liệt tuyến (ulcère de la prostate), nên trị cho tôi bằng nhiều thứ thuốc trụ sinh. Qua nhiều ngày trị liệu, bệnh không thuyên giảm mà lại còn hành thêm.
Đường tiểu bế tắc hoàn toàn, cơn sốt không giảm. Tôi đi rọi quang tuyến X và siêu âm, kết quả vẫn là chứng u xơ tiền liệt tuyến.
Tôi đến bác sĩ chuyên khoa về thận và đường tiểu khác, bác sĩ Hùng, ông khuyên tôi nên đi vào bệnh viện giải phẩu gấp, nếu không thì sẽ nguy đến tính mạng. Tôi yêu cầu bác sĩ Hùng đút ống thông (sonde) lấy nước tiểu ở bọng đái ra. Nước tiểu lấy ra 2 lít rất hôi tanh. Làm sondage rồi tôi thấy dễ chịu, bớt sốt, nhưng vẫn còn bí đái và đau thốn bàng quang. Ngoài Âu dược uống vào liên tiếp, tôi còn áp dụng ngoại khoa châm cứu và đủ thứ thuốc Nam do thân nhân, bạn bè bày biểu, nhưng đường tiểu vẫn bế tắc. Hằng ngày tôi phải đến Bác sĩ Hùng làm sonde một lần để lấy nước tiểu ra. Bác sĩ Hùng đặt cho tôi một dụng cụ mang luôn vào mình để mỗi lần mắc tiểu mở nắp ra, khỏi phải làm thông thường xuyên, sợ trầy trụa trong ống dẫn nước tiểu và nhiễm trùng bàng quang. Dụng cụ đó gây cho tôi sự bực bội khó chịu, nên tôi gỡ ra. Hơn nửa tháng trời mà bịnh vẫn trầm trọng, tôi đành phải tính việc đi vào giải phẩu bệnh “u xơ tiền liệt tuyến”, để xin giúp đỡ nhập viện.
Bác sĩ Trí thấy tôi sắp gần ngày đi Mỹ, nên khuyên tôi rằng: “Bác nên đợi sang Mỹ rồi sẽ mổ, ở Việt Nam chẳng những thiếu thuốc men, mà hậu quả không bảo đảm cho bằng khoa giải phẩu tối tân ở nước ngoài. Vậy cháu cho bác một loại ống thông để bác về nhà mỗi ngày tự làm sonde lấy 2 lần hầu cầm cự đợi ngày đi Mỹ. Ngoài ra bác cứ uống thuốc liên tiếp may ra bệnh sẽ thuyên giảm.
Tôi áp dụng theo lời chỉ dẫn của bác sĩ Trí, tự làm thông lấy 2 lần để cầm cự. Bịnh không hành hung nhưng đường tiểu vẫn bế tắc.
Cùng đường tuyệt vọng, tôi van vái Trời Phật. Bỗng nhiên một đêm nọ tôi hồi nhớ lại thầy tôi đã dạy khi xưa như sau:
-Tao cho mầy toa thuốc chủ trị bịnh “thận hư khí suy” để sau khi có bịnh lấy ra mà dùng,đừng lạm dụng thuốc tây mà nguy đến tính mạng. Ngày biên toa thuốc và còn có ký tên vào đó. Việc đó xảy ra năm 1942, gần 50 năm sau tôi mới nhớ. Tôi bèn lấy toa thuốc dể trên bàn thờ van vái.
Sáng hôm sau tôi bảo vợ ra tiệm thuốc bổ luôn 3 thang đem về sắc cho tôi uống. Uống liên tiếp trong 3 đêm. Bỗng nhiên đêm nọ, khi mắc tiểu tức lói ở bọng đái, tôi đi tiểu tiện, thì tự nhiên đường tiểu thông trở lại. Tôi mừng quá, chẳng khác nào một cơ sở đóng cửa nghỉ việc lâu ngày, nay mở cửa hoạt động trở lại. Tôi mừng quá nhưng chưa dám vội tuyên bố. Hôm sau tôi bảo vợ hốt luôn 4 thang nữa về sắc cho tôi uống. Uống đủ 7 thang thì lành bịnh, sức khỏe phục hồi gần như bình thường. Tôi tuyên bố cho vợ tôi biết: Tôi được thuốc tiên mà qua khỏi cơn tử bịnh. Cả nhà tôi đều vui mừng hơn được vàng.
Tiếng đồn vang ra, bà con lối xóm tới thăm hỏi. Tôi thuật lại tự sự. Ai cũng lấy làm lạ và xin tôi sao ra cho toa thuốc dể dành hộ thân, nhưng phải phóng ảnh để lấy được chữ ký của thầy tôi.
Tôi đến các bác sĩ chữa trị để báo tin bịnh tôi đã khỏi, không cần phải giải phẩu.
Họ đều ngạc nhiên. Có người lại nói:
“C’est incroyable”. (Thiệt không thể tin được)
Thật là khó tin mà là sự thật.
Khi tôi sang Mỹ rồi, vợ tôi gởi thư qua cho biết, có nhiều bạn đạo bị bịnh sạn thận, bí đái, bịnh viêm mũi, bịnh suy nhược, đến xin toa về uống, linh nghiệm phi thường. Hầu như toa thuốc trị bá bịnh, ai cũng cho là thuốc tiên.
Tôi nghĩ lại, người tu hành mà bị giải phẫu thì về sau khó tu lắm là vì cơ thể đã bị thương tổn rồi. Tôi nghĩ thương cho thân tôi, tôi nghĩ đến các bạn già như tôi, nếu gặp phải chứng bịnh như tôi mà phó thác cho Tây Y, lên bàn mổ thì khổ biết bao, cho nên tôi viết ra bài nầy, và đăng lên bài thuốc tiên đã cứu bịnh cho tôi, để quí bạn đạo tùy nghi sử dụng khi cần. Toa thuốc nầy chuyên trị về bệnh « suy thận, hư khí »
Và các biến chứng của nó. Kính mong giúp ích được phần nào cho quí bạn.
BBT.
Toa thuốc được viết lại như sau theo trang Y học Cổ Truyền
1. Thục địa 3 chỉ
2. Hoài Sơn 3 chỉ
3. Trạch tả 3 chỉ
4. Đơn bì 2 chỉ
5. Sơn thù du 2 chỉ
6. Phục linh 2 chỉ
7. Đỗ trọng 3 chỉ
8. Ngưu tất 3 chỉ
9. Bạch truật 2 chỉ
10. Nhục thung dung 3 chỉ
11. Toan táo nhân 4 chỉ
12. Viễn chí 2 chỉ
13. Quảng bì 3 chỉ
14. Nhục quế 3 chỉ
15. Đảng sâm 3 chỉ
16. Bạch đầu ông 2 chỉ
17. Câu kỷ 3 chỉ
18. Chích hoàng kỳ 2 chỉ.
Bài này có các vị Nhân sâm, Phục linh, Bạch truật để bổ tỳ và phế khí; các vị Phuc linh, Sơn thù, Hoài sơn, Đơn bì, Thục địa, Trạch tả dùng để bổ thận âm; các vị Viễn chí, Đan sâm, Câu kỷ tử, Nhục thung dung, Chích hoàng kỳ, Ngưu tất là những vị bổ máu, hoạt huyết (bổ âm), vị Phấn thảo (Bạch đầu ông) là vị để tả nhiệt ở hạ tiêu và kháng sinh. Bệnh bí tiểu thường là do nhiệt kết ở hạ tiêu (thận, bàng quang) khiến cho thận âm bị thương tổn mà sinh ra bí tiểu. Như vậy bài này bổ thận âm, bổ máu, để lợi thủy, lại dùng các vị bổ khí mà phế chủ khí, phế thuộc về kim chính là dùng kim để khai thủy, vị Phấn thảo để tả nhiệt ở hạ tiêu và kháng sinh (trị nhiễm trùng đường tiểu). Bài này dùng các vị rất thông dụng, không phải là tiên dược gì đâu mà chính vị thầy ra toa này mới là "tiên" vậy. Người nào bị bí tiểu, tiểu sẻn, tiểu buốt, nước tiểu ra ít, đục hoặc có máu (do thấp nhiệt tích tụ ở thận, bàng quang) đều có thể dùng được. Bí tiểu do sạn thận, sỏi bàng quang, sỏi tiết niệu thì không có tác dụng nhiều. (Phó)
Sau đây là bài viết của tác giả Thái Huệ Sơn:
Tôi xin thuật lại cho bạn đạo nghe một chuyện khó tin mà có thật: Đầu năm 1990, tôi còn ở Saigon, được chính quyền CS cấp hộ chiếu (passport) cho cả gia đình sang định cư bên Mỹ theo diện HO. Lúc xong mọi thủ tục đợi ngày đăng ký chuyến bay lên đường, thình lình tôi bị cảm sốt. Tôi uống thuốc cảm hai ngày, cơn sốt không thuyên giảm mà lại biến chứng sang bí đái. Thế rồi bọng đái lói tức và sưng to lên như quả dừa. Tôi vội vàng đi khám bác sĩ chuyên môn về thận và đường tiểu. Bác sĩ Nam lên án bệnh tôi là u xơ tiền liệt tuyến (ulcère de la prostate), nên trị cho tôi bằng nhiều thứ thuốc trụ sinh. Qua nhiều ngày trị liệu, bệnh không thuyên giảm mà lại còn hành thêm.
Đường tiểu bế tắc hoàn toàn, cơn sốt không giảm. Tôi đi rọi quang tuyến X và siêu âm, kết quả vẫn là chứng u xơ tiền liệt tuyến.
Tôi đến bác sĩ chuyên khoa về thận và đường tiểu khác, bác sĩ Hùng, ông khuyên tôi nên đi vào bệnh viện giải phẩu gấp, nếu không thì sẽ nguy đến tính mạng. Tôi yêu cầu bác sĩ Hùng đút ống thông (sonde) lấy nước tiểu ở bọng đái ra. Nước tiểu lấy ra 2 lít rất hôi tanh. Làm sondage rồi tôi thấy dễ chịu, bớt sốt, nhưng vẫn còn bí đái và đau thốn bàng quang. Ngoài Âu dược uống vào liên tiếp, tôi còn áp dụng ngoại khoa châm cứu và đủ thứ thuốc Nam do thân nhân, bạn bè bày biểu, nhưng đường tiểu vẫn bế tắc. Hằng ngày tôi phải đến Bác sĩ Hùng làm sonde một lần để lấy nước tiểu ra. Bác sĩ Hùng đặt cho tôi một dụng cụ mang luôn vào mình để mỗi lần mắc tiểu mở nắp ra, khỏi phải làm thông thường xuyên, sợ trầy trụa trong ống dẫn nước tiểu và nhiễm trùng bàng quang. Dụng cụ đó gây cho tôi sự bực bội khó chịu, nên tôi gỡ ra. Hơn nửa tháng trời mà bịnh vẫn trầm trọng, tôi đành phải tính việc đi vào giải phẩu bệnh “u xơ tiền liệt tuyến”, để xin giúp đỡ nhập viện.
Bác sĩ Trí thấy tôi sắp gần ngày đi Mỹ, nên khuyên tôi rằng: “Bác nên đợi sang Mỹ rồi sẽ mổ, ở Việt Nam chẳng những thiếu thuốc men, mà hậu quả không bảo đảm cho bằng khoa giải phẩu tối tân ở nước ngoài. Vậy cháu cho bác một loại ống thông để bác về nhà mỗi ngày tự làm sonde lấy 2 lần hầu cầm cự đợi ngày đi Mỹ. Ngoài ra bác cứ uống thuốc liên tiếp may ra bệnh sẽ thuyên giảm.
Tôi áp dụng theo lời chỉ dẫn của bác sĩ Trí, tự làm thông lấy 2 lần để cầm cự. Bịnh không hành hung nhưng đường tiểu vẫn bế tắc.
Cùng đường tuyệt vọng, tôi van vái Trời Phật. Bỗng nhiên một đêm nọ tôi hồi nhớ lại thầy tôi đã dạy khi xưa như sau:
-Tao cho mầy toa thuốc chủ trị bịnh “thận hư khí suy” để sau khi có bịnh lấy ra mà dùng,đừng lạm dụng thuốc tây mà nguy đến tính mạng. Ngày biên toa thuốc và còn có ký tên vào đó. Việc đó xảy ra năm 1942, gần 50 năm sau tôi mới nhớ. Tôi bèn lấy toa thuốc dể trên bàn thờ van vái.
Sáng hôm sau tôi bảo vợ ra tiệm thuốc bổ luôn 3 thang đem về sắc cho tôi uống. Uống liên tiếp trong 3 đêm. Bỗng nhiên đêm nọ, khi mắc tiểu tức lói ở bọng đái, tôi đi tiểu tiện, thì tự nhiên đường tiểu thông trở lại. Tôi mừng quá, chẳng khác nào một cơ sở đóng cửa nghỉ việc lâu ngày, nay mở cửa hoạt động trở lại. Tôi mừng quá nhưng chưa dám vội tuyên bố. Hôm sau tôi bảo vợ hốt luôn 4 thang nữa về sắc cho tôi uống. Uống đủ 7 thang thì lành bịnh, sức khỏe phục hồi gần như bình thường. Tôi tuyên bố cho vợ tôi biết: Tôi được thuốc tiên mà qua khỏi cơn tử bịnh. Cả nhà tôi đều vui mừng hơn được vàng.
Tiếng đồn vang ra, bà con lối xóm tới thăm hỏi. Tôi thuật lại tự sự. Ai cũng lấy làm lạ và xin tôi sao ra cho toa thuốc dể dành hộ thân, nhưng phải phóng ảnh để lấy được chữ ký của thầy tôi.
Tôi đến các bác sĩ chữa trị để báo tin bịnh tôi đã khỏi, không cần phải giải phẩu.
Họ đều ngạc nhiên. Có người lại nói:
“C’est incroyable”. (Thiệt không thể tin được)
Thật là khó tin mà là sự thật.
Khi tôi sang Mỹ rồi, vợ tôi gởi thư qua cho biết, có nhiều bạn đạo bị bịnh sạn thận, bí đái, bịnh viêm mũi, bịnh suy nhược, đến xin toa về uống, linh nghiệm phi thường. Hầu như toa thuốc trị bá bịnh, ai cũng cho là thuốc tiên.
Tôi nghĩ lại, người tu hành mà bị giải phẫu thì về sau khó tu lắm là vì cơ thể đã bị thương tổn rồi. Tôi nghĩ thương cho thân tôi, tôi nghĩ đến các bạn già như tôi, nếu gặp phải chứng bịnh như tôi mà phó thác cho Tây Y, lên bàn mổ thì khổ biết bao, cho nên tôi viết ra bài nầy, và đăng lên bài thuốc tiên đã cứu bịnh cho tôi, để quí bạn đạo tùy nghi sử dụng khi cần. Toa thuốc nầy chuyên trị về bệnh « suy thận, hư khí »
Và các biến chứng của nó. Kính mong giúp ích được phần nào cho quí bạn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét