Nguyễn Hưng Quốc
Người cầm bút viết cho ai? Thì cho người đọc! Câu trả lời thật đơn giản. Tưởng không ai có thể nói điều gì khác hơn được. Nhưng vấn đề sẽ trở thành vô cùng phức tạp nếu chúng ta hỏi tiếp: Người đọc là ai?
Người cầm bút viết cho ai? Thì cho người đọc! Câu trả lời thật đơn giản. Tưởng không ai có thể nói điều gì khác hơn được. Nhưng vấn đề sẽ trở thành vô cùng phức tạp nếu chúng ta hỏi tiếp: Người đọc là ai?
Phức tạp vì thật ra không
có cái gọi là người đọc chung chung và muôn thuở. Khái niệm "người
đọc" chỉ là một cái gì rất mới, một sản phẩm của xã hội hiện đại, hơn nữa,
ngay trong xã hội hiện đại, khái niệm "người đọc" cũng chỉ là một
khái niệm hàm hồ, và vì tính chất hàm hồ ấy, nhiều người đã lợi dụng nó cho
những trò chơi đầy gian lận.
Xin đừng quên là ở Việt
Nam, trước thế kỷ 20, do sự kiểm soát của vua chúa quá nghiêm ngặt, do điều
kiện kỹ thuật lạc hậu, do nền kinh tế nghèo nàn và cũng do nhiều yếu tố tâm lý
và văn hoá khác, số lượng tác phẩm được khắc in rất hiếm. Có, nhưng hiếm. Cũng
có cả trường hợp người ta mang tận sang Trung Quốc để thuê in nhưng trường hợp
ấy lại càng hiếm. Hình thức tồn tại phổ biến nhất của các tác phẩm văn học, dù
bằng chữ Nôm hay chữ Hán, là dưới dạng viết tay. Tất cả tác phẩm của những cây
bút được xem là đại thụ của văn học Việt Nam thời trung đại, từ Nguyễn Trãi đến
Nguyễn Du, từ Đoàn Thị Điểm đến Hồ Xuân Hương, đều được viết tay. Những bản
khắc in mà chúng ta sưu tầm được hiện nay thường xuất hiện rất muộn sau khi tác
giả đã mất. Muộn có khi đến cả mấy thế kỷ.
Người ta làm gì với các bản
viết tay ấy? Thường là để tặng bạn bè hoặc "để ở nhà thờ", tức là để
cho con cháu chuyền cho nhau đọc. Hoạ hoằn cũng có trường hợp người ta dâng lên
vua chúa, chắc là với hy vọng sẽ được lọt vào mắt xanh của vua chúa, từ đó, may
ra, được trọng dụng hoặc được triều đình tài trợ cho việc khắc in. Nhưng dù thế
nào đi nữa thì số người thực sự đọc các tác phẩm viết tay ấy cũng vô cùng ít
ỏi. Ít ỏi đến độ không thành một "giới", như chữ "giới độc
giả" chúng ta hiện đang dùng.
May mắn, phần nhiều những
người đọc ít ỏi ấy lại là những người ưu tú trong xã hội thời bấy giờ. Do vị
thế xã hội, chính trị và văn hoá của họ, những người đọc ấy có thể tác động đến
quần chúng, những người chỉ nghe tác phẩm, hoặc thậm chí, chỉ
nghe-nói-về-tác-phẩm, để tác phẩm ấy dần dần trở thành một thứ tài sản văn hoá
của cả xã hội và của lịch sử. Có thể nói hầu hết những tác giả trung đại còn
lưu danh đến ngày nay chủ yếu là nhờ sự "tiến cử" của số người đọc ít
ỏi này. Chứ không phải là quần chúng. Chẳng có quần chúng nào được đọc những Ức
Trai thi tập hay ngay cả Quốc âm thi tập lúc Nguyễn Trãi còn sống.
Cũng chẳng có quần chúng nào được đọc những Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam
trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục hay ngay cả Truyện Kiều lúc
sinh thời của Nguyễn Du. Một phần vì họ không biết chữ. Phần khác, ngay cả khi
họ biết chữ, họ cũng không đọc được: không phải ai cũng có cơ hội cầm được
trong tay những bản chép tay hiếm hoi ấy. Do đó, thời trung đại, quần chúng bao
giờ cũng là những kẻ đến muộn, khi mọi giá trị đã được khẳng định một cách chắc
chắn. Nói cách khác, quần chúng chỉ biết những tác giả ĐÃ nổi tiếng rồi mà
thôi.
Độc giả, với tư cách một
tầng lớp xã hội cũng như với tư cách một trong những thành tố quan trọng làm
nên sinh hoạt văn học chỉ thực sự xuất hiện khi ngành báo chí và xuất bản đã
phát triển. Khi thơ văn trở thành một thứ hàng hoá, người đọc mới có cơ hội làm
một thứ khách tiêu thụ, những người, thứ nhất, có thói quen đọc sách khá đều
đặn, ít nhất trong một thời gian nào đó; thứ hai, giữ một khoảng cách nhất định
với tác giả, chỉ tiếp xúc với tác phẩm và, trong phần lớn các trường hợp,
thưởng thức tác phẩm như một công trình nghệ thuật thuần tuý. Một tầng lớp độc
giả như thế chỉ có thể thực sự ra đời tại Việt Nam vào đầu thế kỷ 20.
Trong mấy thập niên đầu,
khối độc giả ấy tương đối thuần nhất. Trong khi chưa có những tài liệu xã hội
học văn học cụ thể, chỉ dựa vào những kiến thức lịch sử và văn hoá chung chung,
chúng ta cũng có thể hình dung đại khái diện mạo của tầng lớp độc giả mấy chục
năm đầu tiên của thế kỷ 20, như độc giả của Tản Đà chẳng hạn, như sau: đại đa
số đó là những công chức cấp trung từ quận, huyện lên đến tỉnh, thành; đó cũng
là những trí thức đã học chữ Hán một thời gian rồi sau đó chuyển sang học tiếng
Pháp và chữ quốc ngữ; những người ở buổi giao thời của hai nền văn hoá Đông và
Tây. Họ có chút vốn Hán học đủ để có thể cảm thụ những tác phẩm được sáng tác
theo hệ mỹ học của thơ Đường, thơ Tống; hơn nữa, để tự xem mình không phải chỉ
là kẻ tiêu thụ mà còn là một thứ tri âm của tác giả, từ đó, dẫn đến những hành
động liên tài đầy ưu ái như hành động của nhiều người đối với Tản Đà. Họ lại có
chút vốn Tây học để dễ dàng đồng cảm và ủng hộ một số tìm tòi, từ phương diện
thể loại đến phương diện ngôn ngữ và tư tưởng của các tác giả hiện đại như Tản
Đà, Hoàng Ngọc Phách, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh, v.v...
Độc giả thuộc thế hệ
1932-45 cũng tương đối thuần nhất. Hầu hết đó là những thị dân và trí thức. Dù
thuộc giới nào thì họ cũng đều khá trẻ. Tôi cho đây là một sự may mắn lớn cho
nhóm Tự Lực văn đoàn và phong trào Thơ Mới. Nói cách khác, theo tôi, lý do
chính khiến nhóm Tự Lực văn đoàn và phong trào Thơ Mới thành công một cách dễ
dàng và nhanh chóng trong việc đánh bại nền văn học cũ không phải chỉ ở tài
năng của họ mà còn nhờ họ gặp được một tầng lớp độc giả lý tưởng. Đó là những
người đang hăm hở với cái mới và đã từng ít nhiều được làm quen với cái mới qua
các tác giả hiện thực và lãng mạn chủ nghĩa trong văn học Pháp thế kỷ 19 từ
trong ghế nhà trường. Với một kiến thức văn học và một quan điểm mỹ học như
thế, họ không hề có chút ngỡ ngàng gì khi tiếp cận với các tác phẩm được xem là
cách mạng của các cây bút tiên phong thời bấy giờ ở Việt Nam. Họ yêu thích ngay
cái vẻ lẳng lơ táo bạo của Thế Lữ, sự cuồng nhiệt mang dáng dấp Tây phương của
Xuân Diệu, sự phê phán gay gắt của Nhất Linh và Khái Hưng đối với chế độ đại
gia đình và lễ giáo phong kiến, lời kêu gọi theo mới, "hoàn toàn theo mới
không chút do dự" của Hoàng Đạo, v.v...
Có thể nói các cây bút tiên
phong thời 1932-45 không cần chinh phục độc giả: những người vốn là những độc
giả của Hugo, của Lamartine, của Baudelaire trong các nhà trường trung học theo
chương trình giáo dục của Pháp đã chờ đợi sẵn để làm những độc giả nhiệt thành
của các cây bút Việt Nam. Sự đồng cảm gần như tức khắc giữa các tác giả và độc
giả của họ thời 1932-45 là sự đồng cảm của những người học cùng một thầy, cùng
được trang bị một số tiền đề văn hoá và thẩm mỹ khá giống nhau. Họ đã là những
tri âm của nhau ngay cả trước khi động tác đọc được khởi sự.
Các thế hệ cầm bút sau này
không còn bao giờ được hưởng những sự may mắn như thế nữa.
Như thế hệ nhà văn sau năm
1954 ở cả hai miền Nam và Bắc, chẳng hạn. Ở cả hai miền, sau năm 1954, chương
trình giáo dục các cấp đều được Việt hoá. Sự thay đổi này là điều hoàn toàn hợp
lý. Người ta không thể phản đối và cũng không nên tiếc nuối. Tuy nhiên, ngay cả
khi rất mực hợp lý, sự thay đổi ấy cũng có cái giá của nó. Ví dụ, trong bộ môn
văn học, tuy học sinh và sinh viên có cơ hội đào sâu hơn về văn học Việt Nam,
nhưng kiến thức về văn học thế giới, cụ thể là văn học Pháp, sẽ mỏng hẳn đi.
Hậu quả là, thứ nhất, học sinh và sinh viên - và cũng là người đọc nói chung -
thường biết khá kỹ về văn học trong quá khứ nhưng lại rất lờ mờ và đầy hoang
mang đối với nền văn học đương đại; thứ hai, từ đó, người đọc luôn luôn đi sau
giới sáng tác, nhất là những người sáng tác có nhiều khát vọng cách tân, thích
phiêu lưu vào các sự tìm tòi và thử nghiệm mới mẻ. Điều này, theo tôi, có thể
là nguyên nhân chính làm cho một số cây bút tiên phong của Việt Nam trong nửa
thế kỷ vừa qua cảm thấy khá lạc lõng và vì cảm giác lạc lõng ấy mà hầu hết, kẻ
sớm người muộn, dần dần bỏ cuộc.
Độc giả Việt Nam sau năm
1954 không những bị đánh mất cơ hội song hành với những cây bút tiên phong mà
còn bị phân hoá nghiêm trọng. Phân hoá về tuổi tác: nhờ các phong trào xoá nạn
mù chữ, nhờ chính sách cưỡng bách giáo dục và nhờ hệ thống phát hành cũng như
hệ thống thư viện được mở rộng, độc giả không còn dừng lại ở lứa tuổi thanh
niên hay trung niên như thời 1932-45 mà xê xích từ chín, mười tuổi đến bảy, tám
chục tuổi. Phân hoá về tầng lớp xã hội: cũng nhờ các yếu tố kể trên, độc giả
văn học hiện nay không phải chỉ giới hạn ở thành thị và trong giới tiểu tư sản
mà còn mở rộng đến nông thôn, lan xuống tận những thành phần bần cùng nhất.
Ngoài ra, còn có sự phân hoá về văn hoá: xưa, chúng ta chỉ chịu ảnh hưởng văn
hoá của Trung Hoa, sau, của Pháp; hiện nay, ngoài hai nền văn hoá ấy, một số
không ít độc giả còn chịu ảnh hưởng của Nga, của các xứ Đông Âu và các quốc gia
nói tiếng Anh, v.v...
Sự phân hoá trầm trọng ấy
làm cho khái niệm "độc giả" trở thành rộng rãi đến độ vô nghĩa. Làm
thế nào để chữ "độc giả" có thể bao gồm cả một em bé ngồi đọc truyện
tranh với một ông lão miệt mài bên cạnh các trang sách Hán Nôm? một chị bán vải
ngoài chợ khi nào rảnh thì đọc tiểu thuyết khi nào khách tới thì nhét cuốn tiểu
thuyết xuống đít với một người để hết cả tâm hồn của mình vào âm vang của từng
chữ, vào sự chuyển động của từng hình ảnh trong thơ? một người lâu lâu mới đọc
một cuốn sách và cũng chỉ đọc một cách ơ hờ với một kẻ nghiền ngẫm cả hàng ngàn
cuốn sách và mỗi lần đọc là một lần nghĩ ngợi, đào sâu, so sánh, cân nhắc? Tất
cả hầu như chỉ giống nhau ở mỗi một động tác: đọc. Là hết. Còn cách đọc của họ,
mục tiêu đọc của họ, những sự tương tác xuất hiện trong quá trình đọc của họ,
mức độ cảm thụ của họ thì khác hẳn nhau.
Sự phân hoá của khái niệm
độc giả cũng làm cho không người nào còn có thể hy vọng trở thành thần tượng
của mọi độc giả được nữa. Không ai có thể làm thoả mãn mọi thị hiếu và mọi
trình độ thẩm mỹ của khối đông đảo lên đến cả mấy chục triệu người gọi là
"độc giả" Việt Nam hiện nay. Thành ra, trong thời đại hiện nay, nhà
văn nào cũng là nhà văn của một giới độc giả nhất định: ví dụ, có người viết
cho thiếu nhi; có người viết cho người lớn. Cho người lớn, có người nhắm vào
những độc giả chỉ đọc để giết thì giờ; có người nhắm vào những độc giả đọc vì
một nhu cầu thẩm mỹ.
Viết cho hạng độc giả thích
những lý tưởng thẩm mỹ ổn định không khó. Những lý tưởng thẩm mỹ ấy đã thành
quy phạm và khuôn sáo rồi. Người ta chỉ cần có chút tài hoa để mô phỏng một bậc
thầy nào đó. Người đọc thích những câu thơ tình tứ và mộc mạc như ca dao ư? Thì
họ mô phỏng theo thơ Nguyễn Bính. Người đọc thích những tiểu thuyết vạch trần
những mặt trái xấu xa dơ dáy của hiện thực ư? Thì họ mô phỏng theo cách viết
của Nguyễn Công Hoan hay Vũ Trọng Phụng. Vân vân. Cứ thế, để tiếp cận được với
hạng độc giả này, người cầm bút phải quá giang các tác giả lớn thời trước. Quá
giang Nguyễn Du rồi quá giang Xuân Diệu. Quá giang Nhất Linh rồi quá giang Nam
Cao. Có điều, con đường đến với hạng độc giả này cũng là con đường đi ngược về
quá khứ. Về một thời đã qua.
Như vậy, người cầm bút
không thể viết cho toàn thể người đọc, cho "độc giả" nói chung. Đó là
điều bất khả. Người cầm bút cũng không nên ăn theo những độc giả của người
khác. Đó là con đường rất ít tính sáng tạo. Người cầm bút chỉ có một con đường
để lựa chọn: viết cho những độc giả của mình.
Nhưng những độc giả ấy ở
đâu? Không ai biết chắc cả. Họ không có sẵn như một lực lượng. Họ rải rác đâu
đó, nằm mai phục trong đám đông vô danh và vô hình. Họ được tập hợp một cách tự
động và tự phát theo tín hiệu phát ra từ một tác giả nào đó mà họ cho là đồng
điệu.
Lịch sử văn học, nhìn từ
một góc độ nào đó, một phần là lịch sử vận động của các nhóm độc-giả-đồng-điệu
như thế. Sự tồn tại của một tác phẩm lớn không phải chỉ là sự chiến thắng của
một tài năng sáng tạo mà còn là sự chiến thắng của một hệ thẩm mỹ, và đồng thời
là sự chiến thắng của một nhóm độc-giả-đồng-điệu nào đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét